TIN TỨC
  • Văn chương thế giới
  • Vai trò của M.M. Bakhtin trong sự đổi mới quan niệm về hình thức nghệ thuật ở Việt Nam

Vai trò của M.M. Bakhtin trong sự đổi mới quan niệm về hình thức nghệ thuật ở Việt Nam

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
965 lượt xem

Nếu hiểu thi pháp học là bộ môn khoa học lấy hình thức nghệ thuật làm đối tượng trung tâm, thì những quan điểm lý thuyết tiến bộ của Bakhtin đã góp phần quan trọng trong sự tái xuất của thi pháp học ở Việt Nam vào những năm 1980. Không có một quan điểm hợp lý về hình thức nghệ thuật trên phương diện lý thuyết thì cũng không thể có một thái độ ứng xử phù hợp đối với những thực hành cách tân trên góc độ hình thức nghệ thuật. Do vậy, có thể nói, thi pháp học của Bakhtin cũng có vai trò nhất định trong bước chuyển của đời sống sáng tác văn học giai đoạn đổi mới.

Từ cuối thế kỷ XX, ở phạm vi thế giới, vai trò của M.M. Bakhtin (1895-1975) ngày một trở nên quan trọng trên nhiều địa hạt như triết học, mỹ học, ngôn ngữ và nghiên cứu văn học. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, ông bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà lý luận và nghiên cứu văn học Việt Nam, cùng trong quá trình thi pháp học trở lại nước ta một cách mạnh mẽ và có hệ thống. Hầu như các tư tưởng quan trọng của ông đều trở nên phổ biến trong giới học thuật, có sự chi phối không nhỏ tới sự đổi mới tư duy thi pháp học của nước nhà. Trong đó, vấn đề quan trọng bậc nhất cho thấy dấu ấn của Bakhtin chính là sự đổi mới quan niệm về hình thức nghệ thuật.


Nhà nghiên cứu người Nga M.M. Bakhtin (1895-1975)

Thời điểm Bakhtin bắt đầu được tiếp nhận, ở Việt Nam tồn tại ít nhất hai cách hiểu về hình thức nghệ thuật. Cách hiểu thứ nhất phổ biến suốt thời gian dài, áp đặt định kiến về thứ chủ nghĩa hình thức đáng lên án trong cuộc sống hằng ngày vào văn chương, để rồi tách bạch và kỳ thị hình thức, xem trọng nội dung. Nhiều ý kiến cho đây là một trong những quan điểm còn lưu lại từ Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1943, thể hiện tập trung ở nguyên tắc đại chúng hoá, chống mọi chủ trương, hành động làm cho vǎn hoá phản lại hoặc xa rời quần chúng. Phức tạp, khó hiểu là một biểu hiện của sự xa rời, phản lại đông đảo quần chúng cần lao, do những điều kiện lịch sử khách quan mà trình độ học vấn đang hết sức hạn chế. Tác phẩm chỉ cần một hình thức đơn giản, sáng rõ, còn chức trách chủ yếu của nó được xét ở nội dung: tốc ký, ghi nhận kịp thời từng sự kiện của đời sống nhân dân, từng bước phát triển của lịch sử cách mạng. Bình có thể cũ, còn rượu phải mới. Mọi cách tân, thể nghiệm về hình thức nghệ thuật rất dễ bị quy kết vào chủ nghĩa hình thức. Cách hiểu này không đúng về khái niệm hình thức đã đành, mà còn rất thiếu hợp lý về khái niệm nội dung.

Cách hiểu thứ hai gắn với các khái niệm như thủ pháp và cấu trúc, xem tính văn chương và cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ thuật mới là những yếu tố then chốt tạo nên giá trị thi pháp. Mọi thứ hình thức và nội dung thuần túy, chỉ sau khi được nhào nặn, tái tạo thông qua thủ pháp để cho ra đời những giá trị thẩm mỹ, chỉ sau khi được tổ chức trong những cấu trúc quan hệ độc đáo mới có thể trở thành nghệ thuật. Cách hiểu này khởi đi từ việc tiếp nhận hình thức luận và cấu trúc luận ở nước ta từ trước khi Bakhtin được du nhập. Ở miền Nam thời còn phân cách, theo Huỳnh Như Phương, từ sau năm 1965, việc tiếp nhận chủ nghĩa cấu trúc đã diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các mặt dịch thuật, lý thuyết và thực hành phê bình với nhiều tên tuổi lớn như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Trần Đỗ Dũng, Ngô Trọng Anh, Trần Ngọc Ninh, Bửu Lịch, Phạm Hữu Lai,…. [1, tr.3]. Sau ngày đất nước thống nhất, cùng xu thế “cởi trói” trong đường lối văn nghệ của Đảng, các hướng tiếp cận thi pháp học cũng xuất hiện ngày một phong phú. Dấu ấn của các nhà hình thức luận, cấu trúc luận ở Nga và phương Tây hiện diện đậm nét trong công trình nghiên cứu của rất nhiều học giả mà chúng ta chỉ có thể kể ra một vài đại diện như Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Trinh, Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Kính,… Xét ở thời điểm mới xuất hiện, dấu ấn ấy đã thổi một luồng sinh khí mới cho nền nghiên cứu văn học ở đất nước vốn không có nhiều truyền thống lý thuyết, hoặc vì hoàn cảnh lịch sử, ở một chặng nhất định chưa thể hợp thức hóa một đời sống lý thuyết đa dạng, hiện đại và phát triển. Quan điểm của hình thức luận và cấu trúc luận cũng tạo cơ sở lý thuyết cho việc phê phán cách hiểu sơ lược về hình thức, trả lại vị thế xứng đáng cho hình thức nghệ thuật trong lý luận và thực tiễn sáng tạo.

Như vậy, ảnh hưởng của các trường phái thi pháp học được xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ học của F.D. Saussure có vai trò quan trọng trong việc thay đổi quan niệm về hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học. Song, tuy việc tiếp nhận trên, tùy vào khả năng linh hoạt và sáng tạo ở mỗi trường hợp, mà dẫn đến thành công hay hạn chế trên những mức độ khác nhau, đều khó thoát khỏi giới hạn của bản thân lý thuyết nền lẫn phương pháp luận ứng dụng vốn được các nhà hình thức luận ở Nga thiết lập từ thuở ban đầu. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, M.M. Bakhtin, V.N. Voloshinov và P.N. Medvedev đã chỉ ra những bất cập trong ngôn ngữ học của Saussure và dựa trên khoảng trống của hệ thống lý thuyết ấy để đề xuất nguyên lý đối thoại. Họ cũng phê phán các nhà hình thức ở chỗ xem thi pháp học là một bộ môn trực thuộc ngôn ngữ học. Bakhtin gọi thứ thi pháp học được trường phái hình thức trừu xuất trực tiếp từ ngôn ngữ học không qua trung gian của một cơ sở mỹ học và triết học mang tính hệ thống, đặt ngoài thể thống nhất của văn hóa loài người, là mỹ học chất liệu. Nền mỹ học ấy không thể cung cấp chỗ dựa vững chắc để giải quyết thỏa đáng vấn đề hình thức nghệ thuật, vì nó không phân biệt được hình thức kết cấu và hình thức cấu tạo, nó cũng cắt đứt mối liên hệ giữa chủ thể sáng tạo và tác phẩm văn học. Việc khoanh hẹp phạm vi khảo sát giá trị thẩm mỹ ở các yếu tố nội văn bản đã đi ngược bản chất thật sự của nghệ thuật: “Tính độc lập của nghệ thuật có căn cứ và được đảm bảo bởi sự dự phần của nó vào thể thống nhất của văn hóa, bởi việc nó chiếm giữ trong thể thống nhất ấy một vị trí không chỉ đặc thù, mà còn thiết yếu và không gì thay thế được” [3, tr.383].

Năm 2007, khi dịch giả Phạm Vĩnh Cư công bố bản dịch tiểu luận “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ” trong tập 1 cuốn Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, sau đó đăng lại trên Tạp chí Nghiên cứu văn học năm 2009, những luận điểm phê bình nói trên của Bakhtin dần được biết đến rộng rãi trong giới nghiên cứu. Nhưng thực ra, theo một con đường khác, giá trị phương pháp luận của những phê phán ấy còn ảnh hưởng từ sớm hơn rất nhiều qua công lao của Trần Đình Sử, người được đánh giá có công đầu trong việc đưa thi pháp học hiện đại về lại Việt Nam. Từ năm 1992, ông đã viết bài “Quan niệm về thi pháp tác giả của M. Bakhtin”, giới thiệu nội dung cơ bản của tiểu luận “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ”. Quan trọng hơn, Bakhtin chính là người khổng lồ có vai trò khai sáng quan trọng bậc nhất giúp ông tạo dựng một bộ khung lý thuyết thi pháp học của riêng mình được truyền bá trên phạm vi cả nước. Trải qua nhiều lần nâng cấp và tái bản, đến nay, Dẫn luận thi pháp học văn học (2017) của Trần Đình Sử vẫn là công trình tạo ra được một hệ thống hoàn thiện cao nhất về lý thuyết thi pháp học ở Việt Nam. Hạt nhân của hệ thống ấy là khái niệm hình thức có tính quan niệm, một khái niệm nhấn mạnh vào thuộc tính chủ thể, nhờ đó đưa tác giả của nó vượt qua giới hạn của thi pháp học hình thức luận. Trần Đình Sử phân biệt hình thức bên ngoài và hình thức bên trong. Hình thức bên ngoài là hình thức chất liệu mà người đọc có thể dễ dàng tiếp cận như các yếu tố ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa, các kiểu bố cục thuộc hình thức thể loại của văn bản ngôn từ, hay các yếu tố đường nét, âm thanh, màu sắc, chi tiết,… trong văn bản hình tượng. Hình thức bên ngoài còn là các thủ pháp thuần túy mang tính kỹ thuật theo quan điểm trường phái hình thức Nga. Thứ hình thức bên ngoài ấy là không thể thiếu cho sự tồn tại của tác phẩm văn học, nhưng chưa phải là điều quan trọng nhất đối với thi pháp học hiện đại theo quan niệm của ông. Hình thức nghệ thuật như là đối tượng của thi pháp học là hình thức bên trong, được Trần Đình Sử hiểu như sau:

– “Hình thức nghệ thuật, theo chúng tôi, là hình thức như nó bộc lộ trong cảm nhận, tức hình thức của khách thể thẩm mỹ mà tác phẩm mang lại cho người đọc, chứ không phải hình thức văn bản trần trụi” [2, tr.64];

– “Đây là hình thức gắn với các phạm trù về tri nhận thế giới” [2, tr.65];

– “Hình thức bên trong là hình thức của cái nhìn nghệ thuật, là sự hiện diện của con mắt nghệ sĩ, lỗ tai nghệ sĩ, cảm giác nghệ sĩ, yếu tố quy định cách tạo hình cho tác phẩm” [2, tr.65];…

Cách hiểu này hoàn toàn thống nhất với luận điểm của Bakhtin về thuộc tính chủ thể của hình thức: tác giả – người sáng tạo là một yếu tố cấu thành hình thức nghệ thuật. Trần Đình Sử cũng thừa nhận điều đó: “Bakhtin gọi đây là hình thức kiến tạo (arkhitektonika) để phân biệt với hình thức kết cấu thuần túy kỹ thuật bề ngoài và chỉ ra bản chất cụ thể của nó” [2, tr.65]. Ông nhận định, sự khác biệt giữa hình thức nghệ thuật với các loại hình thức khác là ở chỗ nó mang tính quan niệm: “Thuật ngữ “tính quan niệm” ở đây dùng để chỉ các nguyên tắc nhìn thế giới mới mẻ đã được nhà văn lồng vào hình thức” [2, tr.69]. Để tăng sức thuyết phục, Trần Đình Sử đã phân tích luận điểm của Bakhtin về cái nhìn của Dostoievski trong tiểu thuyết, rồi kết luận: “Dù ý kiến của Bakhtin đúng sai như thế nào thì về thực chất là ông đang nói đến tính quan niệm trong cái nhìn của nhà văn”. Quan niệm trong cái nhìn của nhà văn có vai trò gì với các cấp độ hình thức? Ông trả lời: “Quan niệm này liên quan tới thế giới quan trừu tượng của nhà văn, nhưng trong sáng tác, quan niệm này trở thành một ý thức hệ tạo hình thức, gắn liền với các biện pháp nghệ thuật có khả năng thể hiện cái nhìn ấy, do đó mà nói là quan niệm nghệ thuật” [2, tr.69]. Sự chuyển hóa những nguyên tắc thế giới quan của nghệ sĩ vào trong hình thức nghệ thuật sẽ biểu hiện thành một quan niệm nghệ thuật về con người. Chiếu theo sự phân cấp hình thức của Bakhtin (hình thức chất liệu, hình thức kết cấu và hình thức cấu tạo) thì quan niệm nghệ thuật về con người chính là mặt nội dung của hình thức cấu tạo. Trong mô hình lý thuyết của Trần Đình Sử, sự thống nhất giữa hình thức có tính quan niệm với quan niệm nghệ thuật về con người sẽ tạo thành tính chỉnh thể tối cao cho thế giới nghệ thuật của một tác phẩm hoặc một tác giả. Bên trong thế giới ấy là các phương diện được thể hiện qua các khái niệm công cụ như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, kiểu tác giả, cốt truyện nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật, cấu trúc thể loại,… Với Trần Đình Sử, thế giới nghệ thuật là khái niệm cho thấy sự hợp nhất giữa hình thức và nội dụng, nội dung là hình thức và hình thức là nội dung: “Các nguyên tắc tạo nên thế giới nghệ thuật vừa là nguyên tắc tạo hình thức, đồng thời cũng là nguyên tắc tạo nghĩa, nguyên tắc giải thích thế giới. Chính vì thế mà khi đã đi vào thế giới nghệ thuật thì không cần đến sự đối lập hình thức và nội dung nữa” [2, tr.73]. Không ít công trình nghiên cứu, luận văn, luận án ở nước ta học hỏi mô hình thi pháp học của Trần Đình Sử, cũng tiếp cận thế giới nghệ thuật của một tác gia, tác phẩm, nhưng khi đi vào triển khai đề mục lại phân thành một chương về nội dung tư tưởng và một chương về hình thức nghệ thuật (hoặc phương thức biểu hiện), rõ ràng đã đi ngược lại quan điểm của chính Trần Đình Sử.

Chưa nói đến sự kế thừa trong việc phát triển mỗi khái niệm công cụ, thi pháp học của Bakhtin cũng đã có ý nghĩa nền móng cho tính hệ thống của mô hình lý thuyết được Trần Đình Sử tạo lập và ứng dụng thành công nhất trong hai công trình: Thi pháp thơ Tố Hữu (1987) và Thi pháp Truyện Kiều (2002). Có lẽ đây là một trong số hiếm hoi mô hình lý thuyết gây được ảnh hưởng rộng khắp giới nghiên cứu và môi trường sư phạm ở nước ta trong những thập niên vừa qua, cho đến giờ chưa hẳn đã dừng lại. Vai trò truyền bá tư tưởng Bakhtin của Trần Đình Sử, như vậy, thể hiện vừa trực tiếp qua các công trình giới thiệu và dịch thuật, vừa gián tiếp qua thành tựu nghiên cứu.

Ngoài ra, còn phải nhắc đến một tiểu luận rất công phu của Lê Ngọc Trà về “Hình thức và ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1 năm 2013. Tác giả không chỉ ghi nhận vai trò gợi dẫn sâu sắc của Bakhtin về hình thức nghệ thuật trong tiểu luận “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ”, mà còn so sánh quan niệm của Bakhtin với một số quan niệm gần gũi.

Lê Ngọc Trà phát hiện, sự diễn đạt mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của Bakhtin rất gần với Hegel: hình thức như là hình thức của nội dung và nội dung như là nội dung của hình thức. Đóng góp của Bakhtin không ở việc xác định bản chất mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, mà ở cách giải thích cụ thể của ông về hình thức trong tác phẩm nghệ thuật qua sự phân biệt khách thể thẩm mỹ với tác phẩm vật chất, chất liệu và hình thức cấu tạo với hình thức kết cấu, để từ đó phê phán trường phái hình thức. Trong số những quan niệm cùng thời, thuật ngữ mà Bakhtin sử dụng hầu như trùng với thuật ngữ “hình thức có ý nghĩa” của C. Bell, cách giải thích khái niệm cũng có những điểm gặp gỡ: “cùng khẳng định năng lượng cảm xúc tích tụ trong hình thức cũng như cùng nhấn mạnh vai trò của người sáng tạo trong quá trình rung động và truyền rung động vào ngòi bút” [4, tr.14]. Song, sự khác biệt cũng rất lớn, ở chỗ Bakhtin luôn chú trọng vào đặc tính thẩm mỹ trong ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, còn Bell không phân biệt ý nghĩa thẩm mỹ với ý nghĩa triết học, xã hội hay đạo đức.

Có lẽ Lê Ngọc Trà là người diễn giải sáng rõ, dễ hiểu bậc nhất các khái niệm thi pháp của Bakhtin. Qua trang viết của ông, ta có được cái nhìn khúc chiết về hình thức nghệ thuật theo quan niệm của Bakhtin như sau: Cái nhìn nghệ thuật là khái niệm tối cao thể hiện vai trò chủ động, tích cực của chủ thể trong quá trình tạo tác nghệ thuật. Cái nhìn nghệ thuật là sự hợp thể của nội dung và hình thức. Nội dung của cái nhìn nghệ thuật, như cách hiểu của Trần Đình Sử, là quan niệm nghệ thuật về thế giới con người. Hình thức cấu tạo là hình thức mang nội dung của cái nhìn nghệ thuật, là những nguyên tắc thể hiện sự quy định của cái nhìn nghệ thuật đối với quá trình tổ chức chất liệu thành tác phẩm nghệ thuật. Sự tổ chức chất liệu có tính mục đích nhằm cụ thể hóa cái nhìn nghệ thuật được gọi là hình thức kết cấu. Nếu Trần Đình Sử phân biệt hình thức bên trong là hình thức nghệ thuật với hình thức bên ngoài là hình thức chất liệu, thì theo Lê Ngọc Trà, bản thân hình thức nghệ thuật cũng có hai mặt của nó, và với quan niệm của Bakhtin thì hình thức kết cấu là mặt bên ngoài và hình thức cấu tạo là mặt bên trong. Với sự nhấn mạnh vào vai trò của hình thức cấu tạo, Bakhtin là một trong số hiếm hoi những người đã cố gắng lý giải hiện tượng chuyển hóa nội dung thành hình thức, hình thức bên trong thành hình thức bên ngoài. Trường phái cấu trúc, trong nỗ lực vượt qua trường phái hình thức, đã đề nghị thay thế khái niệm hình thức bằng khái niệm cấu trúc, nhằm khắc phục sự chia tách nội dung với hình thức nhờ chỗ có cấu trúc của hình thức, cũng có cấu trúc của nội dung. Dù đã chủ định không bỏ qua phương diện nội dung, song vấn đề cấu trúc lại chỉ được khoanh vùng trong phạm vi văn bản, nên thực chất cấu trúc luận cũng không thoát khỏi hạn chế lớn nhất mà Bakhtin đã chỉ ra ở hình thức luận: tách rời thuộc tính chủ thể của văn bản. Qua những gì Lê Ngọc Trà trình bày, ta thấy, mặc dù chủ nghĩa hình thức là đối tượng trực tiếp, song ý nghĩa phê phán trong quan điểm về hình thức nghệ thuật của Bakhtin có thể mở rộng ra các khuynh hướng lý thuyết chủ trương tính tự trị của văn bản nghệ thuật trong thế kỷ XX.

Nếu hiểu thi pháp học là bộ môn khoa học lấy hình thức nghệ thuật làm đối tượng trung tâm, thì những quan điểm lý thuyết tiến bộ của Bakhtin đã góp phần quan trọng trong sự tái xuất của thi pháp học ở Việt Nam vào những năm 1980. Không có một quan điểm hợp lý về hình thức nghệ thuật trên phương diện lý thuyết thì cũng không thể có một thái độ ứng xử phù hợp đối với những thực hành cách tân trên góc độ hình thức nghệ thuật. Do vậy, có thể nói, thi pháp học của Bakhtin cũng có vai trò nhất định trong bước chuyển của đời sống sáng tác văn học giai đoạn đổi mới.

Phan Trọng Hoàng Linh/Vanvn

____________

Tài liệu tham khảo:

1.Huỳnh Như Phương (2017), “Ferdinand De Saussure, Claude Lévi-Strauss và chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam (1954 – 1975), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 2, tr.3-19.

2.Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.

3.Lộc Phương Thủy (chủ biên), Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX  (tập 1), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

4.Lê Ngọc Trà (2013), “Hình thức và ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật” (phần đầu), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 1, tr.4-20.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm
Chùm thơ Rodica Marian (Rumani)
Là một tiến sĩ Ngôn ngữ học, thành viên của Hiệp hội Nhà văn Romania, bà là cộng tác viên khoa học cấp cao của Viện Ngôn ngữ học và Lịch sử Văn học Sextil Pușcariu ở Cluj Napoca.
Xem thêm