Cái Iphone lóe sáng. Đang trong cuộc họp (dĩ nhiên là do sếp Tổng chủ trì), tôi cầm di động bước ra ngoài.
Độc giả trong nước và quốc tế thường biết đến Bảo Ninh là tác giả của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Kể từ khi xuất bản lần đầu (1991), cuốn tiểu thuyết này là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về chiến tranh Việt Nam. Kí ức đau thương kinh hoàng của người lính trực tiếp tham gia trận mạc, sự chán ghét chiến tranh xen lẫn những cảnh huống lãng mạn, bi hùng được biểu đạt bằng một văn phong trau chuốt, tràn đầy cảm xúc đã mang lại cho tác phẩm sự thành công vang dội. “Nỗi buồn chiến tranh” là sự thăng hoa của hồn văn và lực bút Bảo Ninh.
Jakobson từng nói: “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”. Nhà thơ Võ Tấn Cường tự thức sâu sắc điều này nên anh rất coi trọng việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca. Hơn ai hết anh nhận ra vai trò, vị trí của nhà thơ trong việc kết giao và gạch nối kỳ diệu giữa cõi tâm linh, con người và vũ trụ. Thiên chức của nhà thơ vô cùng thiêng liêng nhưng trọng trách cũng rất nặng nề. Vì thế, để làm tròn bổn phận và thiên chức đó không phải là điều đơn giản trong một sớm một chiều. Bởi trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung, người làm thơ nói riêng điều tối kỵ nhất là sự hời hợt, cẩu thả. Bên cạnh tài năng thiên phú, niềm đam mê thì cần phải có cái tâm lẫn ý thức trách nhiệm của người cầm bút. Võ Tấn Cường là một thi sĩ đúng nghĩa, anh sống và cống hiến hết mình với thi ca mà ở đó không có mùi của danh lợi, tiền tài. Ở đó không có sự đua chen, ganh ghét, hiềm khích và những tanh tưởi đu bám… Nơi đó chỉ có chỗ cho thiên lương, cho những khát khao sáng tạo nghệ thuật, là tiếng nói chân thành và thống thiết nhất từ con tim nhà thơ. Chính điều này tạo nên nét phong cách, bản chất sáng tạo riêng mang đậm dấu ấn cá nhân; khẳng định cá tính sáng tạo và lý tưởng thẩm mỹ của Võ Tấn Cường.
Bài phát biểu dưới đây của nhà văn cũng đã cách nay 43 năm. Tình cờ tìm được, xin giới thiệu với các bạn để hiểu thêm những trải nghiệm, những suy ngẫm và tiên đoán của ông vẫn còn có giá trị đến tận hôm nay…
Bài bình bài thơ của Mạc Phong Tuyền, một tác giả trẻ xứ Thanh.
Có một thứ tình yêu đi theo Đỗ Lai Thúy tự thủy chí chung, đó là tình yêu đối với văn học. Thuở bé ngay từ khi mới biết chữ, ông đã say mê đọc thơ, rồi kiếm hiệp, để rồi nhiễm vào máu tình yêu văn chương và cá tính phiêu du tung hoành. Suốt thời đại học và thời lính, những gì ông tâm huyết đều gắn bó với văn. Tốt nghiệp cử nhân Nga văn, nối tiếp là mười năm quân ngũ cuốn theo tuổi thanh xuân. Khi trở về, ông lại truân chuyên tròng trành: làm thơ, viết kịch, dịch với nhiều vỡ mộng. Nàng thơ bị xé cánh, viết kịch bị hạ màn, dịch thơ thì cũng bị “xê dịch” tên người dịch. Lối đi nào cho Đỗ Lai Thúy là câu hỏi về sự tồn tại cần được trả lời. Cuối cùng, như một câu trả lời mang tính mặc khải, Đỗ Lai Thúy tìm thấy bản mệnh của mình ở phê bình văn học. Một sự phát ngôn của những chất chồng. Phê bình văn học thậm chí đến với ông như một cơ duyên ép buộc (“một cùng đường, khi mọi phương án văn học đời người bị phá sản”).(1)