Nhà thơ, nhà viết kịch LƯU QUANG VŨ (1948-1988)
TIỂU SỬ
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc lại ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú Thọ cùng cha mẹ. Khi hoà bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội.
Từ 1965 đến 1970 ông nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không - Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ.
Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,...
Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Khi mới 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v. Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của anh được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu.... Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.
Lưu Quang Vũ qua đời cùng vợ là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ trong một tai nạn ô tô ngày 29 tháng 8 năm 1988 trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương.
CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
THƠ
- Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa), 20 bài thơ
- Mây trắng của đời tôi (1989), 30 bài thơ
- Bầy ong trong đêm sâu (1993), 40 bài thơ
- Gửi tới các anh (1998)
- Di cảo (2008), 29 bài thơ
- Những bông hoa không chết (2008), 35 bài thơ
- Nhiều bài thơ khác chưa được in thành tập.
VĂN
- Mùa hè đang đến (truyện, 1983)
- Người kép đóng hổ (truyện, 1984)
- Một vùng mặt trận (truyện vừa)
KỊCH
- Sống mãi tuổi 17
- Nàng Sita (1982)
- Hẹn ngày trở lại
- Nếu anh không đốt lửa
- Hồn Trương Ba da hàng thịt (1981)
- Lời thề thứ 9
- Khoảnh khắc và vô tận
- Bệnh sĩ (1988)
- Chữ cuối
- Tôi và chúng ta (1984)
- Người tốt nhà số 5
- Ngọc Hân công chúa
- Linh hồn của đá
- Ông vua hóa hổ
- Vắng mặt trong hồ sơ
- Chiếc ô công lý
- Ông không phải là bố tôi
- Điều không thể mất
- Ai là thủ phạm
- Chuyện tình bên dòng sông thu
- Tin ở hoa hồng (1986)
- Hoa cúc xanh trên đầm lầy
- Lời nói dối cuối cùng
- Nguồn sáng trong đời
- Mùa hạ cuối cùng
- Người trong cõi nhớ (1982)
- Ngọc Hân công chúa (1984)
TIỂU LUẬN, PHÊ BÌNH
- Diễn viên và sân khấu (cùng viết với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh, 1979)
ẢNH TƯ LIỆU
TÁC PHẨM THƠ CÓ THỂ ĐỌC TRÊN MẠNG