- Chân dung & Phỏng vấn
- Nhà báo Hồ Quang Lợi: Tận cùng của báo chí là văn hóa - Tận cùng của văn hóa là con người
Nhà báo Hồ Quang Lợi: Tận cùng của báo chí là văn hóa - Tận cùng của văn hóa là con người
NHƯ BÌNH - VIỆT HÀ / An ninh Thế giới
Nhà báo Hồ Quang Lợi là một trong những cây bút bình luận, chính luận và quốc tế sắc sảo của báo chí Việt Nam, đồng thời là một nhà lãnh đạo uy tín trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Ông luôn nhấn mạnh vai trò của đạo đức và nhân văn trong nghề báo, ông cho rằng “phẩm giá con người là điều quý giá nhất”. Ông tin tưởng rằng báo chí phải phục vụ con người và xã hội, đặc biệt trong thời đại công nghệ số hiện nay. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, ông đã dành cho phóng viên chuyên đề ANTG một cuộc trò chuyện thú vị về nghề báo - những thách thức và cơ hội trong thời đại số.
Nhà báo Như Bình và nhà báo Hồ Quang Lợi
Ngọn bút của nhà báo là vũ khí của xã hội
- Chúc mừng ông vừa ra cuốn sách thứ 11 trong sự nghiệp làm báo của mình, một cuốn sách đồ sộ và nóng hổi những vấn đề thời sự. Thưa ông, điều gì đã thôi thúc ông ra mắt “Sự thật, lẽ phải và ngọn bút” vào thời điểm này?
+ Tôi năm nay đã bước vào tuổi 70 với 45 năm làm báo, trải qua hầu hết các công việc, vị trí trong hoạt động báo chí. Cả cuộc đời tôi làm có một nghề thôi, đó là nghề báo, một nghề vốn không phải do tôi lựa chọn mà là số phận và cuộc đời đã cho tôi. Đến giờ này, tôi thấy mình thật may mắn vì được làm báo trong suốt cuộc đời của mình. Trong 45 năm đó, trải qua các cương vị, công việc báo chí, ở vị trí nào cũng đưa đến cho tôi những nỗi niềm, những trải nghiệm và bây giờ sau một chặng đường dài nhìn lại, có những điều tôi chắt lọc, chiêm nghiệm, đúc kết muốn chia sẻ với anh em đồng nghiệp và những người quan tâm đến báo chí. Đặc biệt, thời điểm này là một dịp đặc biệt, kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam – một cột mốc vàng trong lịch sử Báo chí Việt Nam.
- Vậy “Sự thật, lẽ phải và ngọn bút” - một cái tên rất hấp dẫn và thời sự, phải chăng đó cũng là triết lý báo chí mà ông theo đuổi trong hành trình hơn 45 năm làm báo của mình?
+ Báo chí sinh ra để làm gì? Tôi luôn tâm niệm, trước hết và sau cùng báo chí sinh ra để làm rõ sự thật. Nhưng muốn làm rõ sự thật thì báo chí tìm kiếm sự thật ở đâu? Khi tìm được sự thật rồi thì đó đã là lẽ phải chưa? Tôi nghĩ, chưa chắc đó là lẽ phải vì có những cái giống sự thật đánh lừa chúng ta, vì thế đôi khi, nhà báo không bảo vệ được những cái cần bảo vệ, không đấu tranh với những gì cần đấu tranh. Vì thế, giữa sự thật và lẽ phải không phải lúc nào cũng hoàn toàn trùng khớp nhau. Một nửa sự thật chưa phải hoàn toàn là sự thật. Muốn bảo vệ lẽ phải thì phải tìm đúng bản chất của sự thật. Ai làm việc đó, chính là những người làm báo. Nhưng có phải tất cả những người làm báo đều làm được việc đó? Điều đó phụ thuộc vào ngòi bút người làm báo. Ai cầm ngòi bút ấy, người cầm bút đó có đạo đức không, người cầm bút đó có tinh thông nghề nghiệp không? Người làm báo đó có trách nhiệm xã hội không? Ngòi bút của họ quyết định điều đó. “Đâm mấy thằng gian bút chằng tà” , “dùng ngọn bút làm đòn xoay chế độ”. Lúc đó, ngòi bút đã trở thành ngọn bút. Ngọn bút trong tay người làm báo đã trở thành vũ khí của xã hội. Tôi nghĩ về nghề của chúng ta như vậy.
- Vậy để giữ được triết lý ấy trong cuộc đời làm báo hơn 45 năm của mình, ông phải đối diện với những thử thách, khó khăn gì? Và ông đã vượt qua những áp lực của nghề báo như thế nào?
+ Không thể kế hết những khó khăn, gập ghềnh trên chặng đường làm báo 45 năm của tôi. Có những khó khăn, thử thách âm thầm lặng lẽ, đôi khi chỉ mình biết. Nhưng có lẽ, áp lực lớn nhất là khi phải đối mặt với những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, hệ trọng mà mình phải lên tiếng. Như sự kiện chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ - một “trận động đất chính trị” có tác động tiêu cực, nhiều chiều đến xã hội Việt Nam. Là người làm báo, tôi sẽ bình luận sự kiện đó như thế nào, đây là một thách thức rất lớn. Tôi đã viết, không chỉ một mà hàng chục bài về “trận động đất chính trị” ấy. Đó là một nỗi đau về tư tưởng, một biến động ý thức hệ rất lớn. Mỗi bài báo là một thách thức và tôi đã nỗ lực vượt qua. Đến bây giờ, đọc lại những bài báo đó, tôi không thấy xấu hổ. Nó đã góp phần định hướng xã hội vào một thời điểm phức tạp. Rồi rất nhiều sự kiện lớn của thế giới như hai cuộc chiến tranh Vùng Vịnh 1991, 2003, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới năm 1997 - 1998, cuộc chiến ở Nam Tư 1999, sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, chiến tranh Apganixtan 2001, các vấn đề đối ngoại của Việt Nam như tiến trình đầy khó khăn tiến tới bỏ cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, thuyền nhân… Đến giờ này nhìn lại, tôi không phải xấu hổ vì mình đã nghĩ sai, viết sai.
- Không phải ngẫu nhiên trong tập sách quý này, bài báo đầu tiên mà ông chọn đưa ở vị trí số một là bài “Một thế kỷ chiến đấu vì đất nước và nhân dân” mà điểm tựa là câu chuyện Bác Hồ - người khai sinh nền báo chí Cách mạng Việt Nam. Điều này rất có giá trị trong dịp kỷ niệm 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam. Ông có thể chia sẻ thêm với bạn đọc về điều này?
+100 năm trước, ngày 21- 6 - 1925, Bác Hồ khai sinh ra tờ báo Thanh niên - ngọn lửa khai sáng và mở đường. Điều này cho thấy Bác Hồ xác định báo chí có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước và nhân dân ta. Báo chí là vũ khí đầu tiên và quan trọng nhất thời điểm đó. Tờ báo “Thanh niên” ra đời năm 1925 và 5 năm sau Đảng mới ra đời. Báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước và trong thời đại công nghệ số ngày nay.
Bác Hồ là lãnh tụ vĩ đại, là nhà báo vĩ đại. Bác làm báo từ năm 1922 với tờ Le Paria. Nhiều học trò của Bác sau này trở thành những nhà lãnh đạo hàng đầu đều từng là nhà báo, học Bác Hồ ở tinh thần dùng báo chí như là một vũ khí đặc biệt. Trong những năm đầu đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã dùng báo chí thật hữu hiệu với loạt bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân.
Xây dựng một nền báo chí kiến tạo, báo chí giải pháp, báo chí phân tích
- Có một vấn đề rất lớn đặt ra đối với nền báo chí Việt Nam hiện nay, đó là sự chuyển mình của báo chí trong bối cảnh hiện đại. Thưa nhà báo Hồ Quang Lợi, với kinh nghiệm hơn 45 năm làm nghề, ông nhìn nhận thế nào về những thay đổi căn bản của báo chí Việt Nam trong 10 năm trở lại đây?
+ Mạng xã hội và trí tuệ nhân tạo đang tạo ra những cơ hội lớn cho báo chí với những tiện ích siêu việt. Nhưng đồng thời nó cũng gây ra những thách thức khiến đây đó đã có những cách nhìn về báo chí không phù hợp cho rằng mạng xã hội có thể thay thế báo chí cung cấp thông tin cho xã hội. Đó là một nhận thức rất sai lầm. Nhiều người nhầm lẫn giữa truyền thông và báo chí. Phải khẳng định rằng, không gì có thể thay thế được vai trò của báo chí. Truyền thông thì ai cũng làm được, mỗi người dân hay doanh nghiệp đều có thể làm. Nhưng báo chí thì khác, vì những người làm báo, bằng bản lĩnh chính trị, sự tinh thông nghề nghiệp và đạo đức mới có thể giải đáp được những vấn đề mạng xã hội đặt ra.
`- Sự phát triển của mạng xã hội và công nghệ số đang làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin. Ông cho rằng báo chí chính thống cần thích ứng ra sao để giữ vững vai trò định hướng và dẫn dắt dư luận?
+ Theo tôi, có 2 vấn đề đặt ra: nội dung phải tốt, đủ độ tin cậy. Nhưng nội dung tốt chưa giải quyết được vấn đề, mà chúng ta phải có công nghệ tốt. Nội dung và công nghệ không thể tách rời nhau. Như thế, chúng ta vẫn phát huy được giá trị cốt lõi của báo chí trong thời đại số mà vẫn sử dụng được sự tiên tiến, ưu việt của công nghệ. Nội dung là “vua” thì công nghệ là “nữ hoàng”, phải đan hoà với nhau.
- Trước làn sóng thông tin đa chiều, thậm chí là nhiễu loạn, theo ông, đâu là tiêu chuẩn cốt lõi để một cơ quan báo chí giữ được uy tín với công chúng?
+ Có một thời kỳ và bây giờ vấn đề này vẫn chưa chấm dứt là nhiều cơ quan báo chí luôn bị hối thúc quá mức để trở thành số một trong việc đưa tin. Nhưng trong thời đại số này, việc đưa tin nhanh không còn là vấn đề quyết định nhất. Độ tin cậy và sức thuyết phục là con đường sống của báo chí. Đây là lúc đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một nền báo chí kiến tạo, báo chí giải pháp, báo chí phân tích.
- Ông nhìn nhận như thế nào về mối quan hệ giữa báo chí, mạng xã hội và sự thật? Liệu báo chí có thể bị nhấn chìm trong ‘dòng thác” công nghệ?
+ Mạng xã hội là một biển thông tin khổng lồ và lộn xộn, tốt có xấu có, thậm chí độc hại. Vấn đề là nhà báo phải có “con mắt xanh”, có đủ độ tinh tường để biết cái gì là thật, cái gì là giả. Chính sự lộn xộn của mạng xã hội là cơ hội để báo chí khẳng định vai trò của mình. Cho nên chúng ta không thể tiếp nhận thông tin trên mạng xã hội một cách giản đơn, hời hợt mà phải có kiểm chứng, phân tích, so sánh để để biết đâu là thật/giả. Nhà báo phải chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác.
- Vậy liệu báo chí bây giờ bị lọt thỏm giữa dòng thác thông tin của mạng xã hội?
+ Muốn tồn tại, chúng ta phải khẳng định được giá trị cốt lõi của báo chí. Chúng ta khẳng định bằng tính chuyên nghiệp và đạo đức của người làm báo. Tại sao khi tiếp nhận thông tin trên mạng xã hội, công chúng vẫn ngờ vực và họ sẽ kiểm chứng từ báo chí, chờ đợi báo chí lên tiếng. Đó là lúc báo chí đang sống và chúng ta vẫn đang tồn tại. Tôi xin nhắc lại, giá trị cốt lõi của báo chí chính là sự công tâm, khách quan, bảo vệ sự thật và lẽ phải. Nhà báo phải đắm mình vào hiện thực, phải dùng ngòi bút của mình đấu tranh và tìm ra sự thật. Nhưng chiến đấu đã đủ chưa? Báo chí rất cần nhân văn. Một nền báo chí không có tính nhân văn là nền báo chí thất bại. Cho nên trong cuốn sách của tôi có hẳn 1 chương về “ánh sáng nhân văn”.
- Câu trả lời của ông gợi cho tôi câu hỏi, ông từng khẳng định rằng, “tận cùng của báo chí là văn hóa”. Và ngòi bút nhân văn mới làm nên vẻ đẹp văn hóa của báo chí. Theo ông, giữa văn hóa và báo chí có mối quan hệ khăng khít như thế nào?
+Tôi cho rằng, tận cùng của báo chí là văn hóa và tận cùng của văn hóa là con người, cho nên rất cần báo chí nhân văn. Báo chí là một sản phẩm văn hóa, có trách nhiệm truyền tải các giá trị văn hoá đến xã hội. Bản thân nhà báo vừa làm báo vừa làm văn hóa. Xây dựng văn hóa là xây dựng con người. Vì đằng sau mỗi bài báo là số phận, thân phận của từng con người, gia đình, cộng đồng. Không được đẩy ai đến bước đường cùng, tuyệt vọng.
- Kinh tế báo chí bây giờ đang trở thành một vấn đề, khi áp lực đang đè nặng lên các tòa soạn, các Tổng Biên tập, thậm chí các phóng viên. Ông nghĩ sao về tính nhân văn của báo chí trong kinh tế báo chí?
+ Chúng ta không thể tách rời đạo đức nghề báo với kinh tế báo chí, vì kinh tế báo chí liên quan đến vấn đề tính tự chủ tài chính, “cơm áo gạo tiền” của các cơ quan báo chí. Phải xác lập được một chính sách tổng thể để xây dựng kinh tế báo chí, ở đó có trách nhiệm của các nhà hoạch định, điều hành chính sách, trách nhiệm của cơ quan chủ quản và đương nhiên là trách nhiệm của cơ quan báo chí. Nhiều cơ quan báo chí vẫn đang vật vã vì mưu sinh. Nếu bị hối thúc quá mức bởi “cơm áo gạo tiền” thì ngòi bút khó có thể ngay thẳng và tư cách người làm báo khó mà đàng hoàng được. Tuy vậy, không được lấy việc đời sống khó khăn để bào chữa cho những sai phạm về đạo đức trong hoạt động báo chí. Người cầm bút sai phạm, ngòi bút bị bẻ cong sẽ vô cùng nguy hiểm. Nghề báo không cho phép như vậy.
-Vậy theo ông, nhà nước cần có những chính sách gì ưu tiên cho nghề báo - một nghề mà ông nhấn mạnh là ‘nghề đặc biệt”?
+ Tôi nghĩ, trước hết, các cơ quan báo chí được giao làm nhiệm vụ chính trị phải được bảo đảm nguồn kinh phí cần thiết để hoạt động. Thứ 2, cần có hành lang pháp lý vũng chắc và phù hợp để các cơ quan báo chí tự chủ tìm kiếm nguồn thu một cách hợp pháp. Thứ 3, phải có chính sách về thuế phù hợp với đơn vị đặc thù như báo chí, không thể coi báo chí như một doanh nghiệp và áp thuế cao. Lợi nhuận lớn nhất của báo chí là đưa thông tin ra xã hội một cách chính xác, đúng đắn, thu hút, góp phần tăng cường nguồn lực quốc gia.
-Trí tuệ nhân tạo, AI đang dần thay thế nhiều công việc trong xã hội, ông có nghĩ, trong tương lai trí tuệ nhân tạo có thay thế được báo chí?
Gần đây, trí tuệ nhân tạo tham gia ngày càng sâu vào báo chí. Phải nói rằng, trí tuệ nhân tạo rất hữu ích, siêu việt, giúp nhà báo nhiều công đoạn. Nhưng dù ưu việt đến mấy AI cũng không thể thay thế được nhà báo. Vì AI vẫn là cỗ máy lạnh lùng, không có trái tim, không có tâm hồn, không hiểu được cảm xúc, nhu cầu thực sự của trái tim và tâm hồn con người. Nhà báo vẫn phải kiểm soát được toàn bộ quy trình làm báo. Chúng ta là người kiểm định, thẩm định các thông tin đúng hay sai. Cần phải cảnh báo “bệnh lười biếng” khi ai đó nghĩ AI làm thay chúng ta mọi việc, ta không cần động não mà chỉ đặt lệnh cho AI trả lời là có ngay sản phẩm mong muốn. Nếu lạm dụng đến mức nhà báo tự phủ nhận mình là sai lầm. Chúng ta không nên sợ trí tuệ nhân tạo nhưng cũng đừng thần thánh hóa nó. Nhà báo phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình. AI là sản phẩm của con người và con người cần phải kiểm soát nó. Nếu AI kiếm soát con người thì đó là thất bại công nghệ đau đớn và khủng khiếp nhất của con người.
- Nếu tôi nói rằng chúng ta đang biện hộ cho một điểm yếu duy nhất của trí tuệ nhân tạo là cảm xúc và cho rằng nó không thay thế được mình mà không nâng cấp bản thân để theo kịp sự phá triển của AI thì sao?
+ Chúng ta phải tự nâng bản thân mình. Các nhà báo phải không ngừng học hỏi. Nếu không phát triển sẽ bị loại bỏ. Trong thời đại này, con người càng phải vươn lên mới làm chủ được AI.
Đừng nhầm lẫn vai trò của báo chí và truyền thông
- Ngay ở chương 1 của cuốn sách “Sự thật- Lẽ phải và ngọn bút”, ông đã đi thẳng vào vấn đề vô cùng lớn lao và nhạy cảm của đất nước ta ngày hôm nay. Đó là “Cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam năm 2025 mang trong mình đòi hỏi cấp thiết, nóng bỏng như một lời phán quyết của lịch sử”. Ông có những đánh giá thế nào về vấn đề đang được quan tâm nhất hiện nay?
+Tinh gọn bộ máy không phải là vấn đề mới, chúng ta đã làm vấn đề này từ nhiều năm trước nhưng chưa thành công. Những đòi hỏi của cuộc sống hôm nay khiến chúng ta phải vào cuộc với tâm thế mới, nguồn năng lượng mới và quyết tâm mới. Điều này đòi hỏi một bản lĩnh rất lớn của những nhà lãnh đạo. Và chủ trương đó phải được lan tỏa trong xã hội để trở thành quyết tâm chung của toàn xã hội. Chỉ có như thế chủ trương tinh gọn bộ máy hôm nay mới thực sự trở thành một cuộc cách mạng và đưa đến những giá trị mới. Cách đây chừng 35 năm, khi Liên Xô và Đông Âu chao đảo trong những biến động lớn, thời điểm đó, tôi đã viết: “Vấn đề sống còn và cốt tử của Việt Nam hôm nay là phải tìm ra một thể chế, cơ chế có thể giải phóng được sức lao động sáng tạo sung mãn của người Việt Nam”. Tôi nghĩ, khi chúng ta đặt mục tiêu đến 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển thì lúc này đòi hỏi một cuộc cấu trúc lại toàn bộ hệ thống của chúng ta quyết liệt như một sự phán quyết từ lịch sử cho hiện tại và tương lai.
- Ông có niềm tin vào công cuộc tinh gọn sẽ mang đến sự thành công, đột phá hay không? Cơ sở của niềm tin đó là gì, theo ông?
+ Tôi hoàn toàn có niềm tin rằng, cuộc cách mạng tinh gọn này sẽ thành công mặc dù chúng ta phải đối mặt với không ít khó khăn. Tôi tin vào tinh thần Việt Nam mà chúng ta đã thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử và hôm nay. Tinh thần Việt Nam rất bao quát nhưng cũng rất cụ thể. Đó là tinh thần đối mặt với khó khăn và sẵn sàng vượt qua thử thách, tinh thần vượt qua chính mình, nhìn thấy điểm yếu của mình mà khắc phục, biết vượt qua hận thù với tinh thần hòa hiếu để biến kẻ thù thành đối tác quan trọng… Tôi nói thế để thấy trách nhiệm của chúng ta trước sự phán quyết của lịch sử, mỗi người đều phải cố gắng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng nào cũng sẽ có những đau thương. Trên đoạn đường để đi đến mục tiêu chung vĩ đại ấy vẫn có những con người cụ thể, những cảnh huống cụ thể phải chịu thiệt thòi, thậm chí đau khổ, hy sinh…Chúng ta phải thấu cảm, để không ai bị bỏ rơi. Nhà nước quyết định dành ra tới 44.000 tỷ đồng để bù đắp cho những người bị ảnh hưởng của tinh gọn bộ máy là theo tinh thần đó.
- Trong cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy ấy, báo chí cũng không nằm ngoài cuộc. Ông đánh giá thế nào về chủ trương sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống báo chí hiện nay theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp và hiện đại hóa?
+ Báo chí thực tế đã có một cuộc sắp xếp vào năm 2019. Bây giờ là một thời điểm quyết liệt và gay gắt hơn nhiều, một loạt tờ báo, kênh truyền hình thiết yếu quốc gia dừng hoạt động, điều mà mấy tháng trước không ai hình dung ra. Nó thực sự chấn động đối với các nhà báo nhưng lại hợp lý vì nó nằm trong cuộc cách mạng tinh gọn chung của nhà nước. Điều này diễn ra vào dịp kỷ niệm 100 năm báo chí cách mạng nên gây xao xuyến trong một bộ phận không nhỏ những người làm báo. Nhiều người đang không biết đi đâu về đâu, đời sống bấp bênh. Tôi có viết rằng “Chính lúc này, cần sự quan tâm ấm áp cho những người để cho ai cũng cảm thấy tự hào về những năm tháng mình đã cống hiến cho sự nghiệp báo chí thay vì họ có cảm giác hẫng hụt và chua chát”.
- Nhiều tờ báo, nhất là cơ quan báo chí cấp ngành, cấp tỉnh đã buộc phải giải thể hoặc sáp nhập. Dưới góc nhìn của một người từng quản lý báo chí cấp cao, ông thấy cần lưu ý điều gì để việc sáp nhập không triệt tiêu bản sắc và thế mạnh riêng của từng tờ báo? Và không làm cho báo chí yếu đi, teo tóp đi?
+ Tôi muốn khẳng định lại một vấn đề là phải phân biệt rạch ròi giữa báo chí và truyền thông. Ở đâu đó chúng ta chỉ nói về truyền thông mà xem nhẹ vai trò của báo chí là hoàn toàn sai, những người hoạch định chính sách, không thể nhầm lẫn điều này. Chớ có vì trong thời đại truyền thông mà coi nhẹ vai trò của báo chí. Nếu sáp nhập các cơ quan báo chí mà gọi là “trung tâm truyền thông” thì báo chí ở đâu? Điều này vô hình chung lại nhầm lẫn giữa báo chí và truyền thông. Trong luật Báo chí sửa đổi cần phải quy định rõ để khẳng định vị trí của báo chí trong xã hội và tạo hành lang pháp lý cần thiết để báo chí phát triển.
Báo chí ở bất cứ chế độ nào cũng đi tìm kiếm sự thật
- Theo ông, báo chí Việt Nam cần điều chỉnh chiến lược phát triển thế nào trong 10 năm tới để vừa tinh gọn, hiện đại, vừa giữ được “hơi ấm con người” trong mỗi tòa soạn?
+ Tôi nghĩ điều cần làm là sửa đổi Luật Báo chí như tôi đã nói ở trên. Có mấy vấn đề lớn hiện nay chưa giải quyết được: Đó là hệ thống báo chí hiện nay không còn như trước, chúng ta cần thích ứng để tạo điều kiện cho báo chí phát triển trong thời đại số. Thứ 2, mạng xã hội và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh, vừa là cơ hội vừa là thách thức nên phải có hành lang pháp lý để quản lý báo chí, truyền thông phù hợp. Thứ 3, nhiều cơ quan báo chí gặp vấn đề khó khăn về kinh tế báo chí, nên trong luật phải có quy định rộng mở hơn, tạo điều kiện cho báo chí tự chủ, làm kinh tế để có nguồn thu hợp pháp. Thứ 4, vấn đề đạo đức nghề báo trong thời đại số trở thành thách thức lớn với người làm báo. Vì thế cần những quy định rõ ràng hơn để nhà báo hoạt động đúng trách nhiệm, lương tâm, phải có chế tài và thiết chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của người làm báo.
-Theo ông, báo chí Việt Nam đang làm tốt vai trò phản biện xã hội và thúc đẩy các giá trị nhân văn, khai sáng không? Còn điều gì cần thay đổi?
+Nếu nhìn từ thời dựng nước, báo chí là một ngọn cờ khai sáng đối với quốc dân và tinh thần ấy truyền tỏa trong sự nghiệp bảo vệ, dựng xây, phát triển đất nước trong 100 năm qua. Đó là niềm tự hào sâu sắc của người làm báo Việt Nam, chúng ta đồng hành cùng đất nước, dân tộc và luôn ở vị trí xung kích và tiên phong. Đảng và Nhà nước trao huân chương Sao Vàng cho Báo chí Cách mạng Việt Nam là sự khẳng định trang trọng cống hiến đặc biệt xuất sắc của báo chí. Thực sự, báo chí đã trở thành niềm tin cậy sâu sắc của nhân dân. Báo chí đã tham gia xây dựng xã hội và con người.
Còn vai trò phản biện của báo chí thì sao? Tôi cho rằng, không phải lúc nào báo chí cũng làm tốt vai trò phản biện. Có một thời kỳ khá dài, báo chí còn khá nặng về tuyên truyền một chiều và có tinh minh họa. Môi trường dân chủ ảnh hưởng đến sự tham gia của báo chí. Chính báo chí cũng tham gia vào xây dựng môi trường dân chủ đó để người dân được hưởng và bản thân nhà báo cũng có có hội làm nghề tốt hơn.
Gần đây báo chí tham gia mạnh mẽ vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Tinh thần, đấu tranh, phản biện thể hiện rõ nét hơn. Đây là năm thứ 4 chúng ta có Giải báo chí Phòng chống tham nhũng, tiêu cực và giải Báo chí Quốc gia hàng năm có lượng bài đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực khá lớn. Điều này chứng tỏ báo chí càng ngày càng thể hiện sự khách quan, công tâm, bảo vệ lẽ phải, công lý và thể hiện rõ hơn tính chiến đấu và tính nhân văn.
- Với vai trò là một nhà bình luận quốc tế kỳ cựu, ông đánh giá thế nào về vị thế của báo chí Việt Nam trên bản đồ truyền thông khu vực và thế giới?
+ Việt Nam không có báo chí tư nhân, báo chí của chúng ta nằm trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng vẫn có đủ tự do để bảo vệ công lý, lẽ phải. Báo chí Việt Nam đang hội nhập, hòa vào dòng chảy của báo chí thế giới. Từ nhiều năm nay chúng ta đã có nhiều lớp bồi dưỡng, giảng dạy, làm báo ở nhiều môi trường phong phú và đa dạng. Báo chí ở bất cứ chế độ nào cũng phải đi tìm kiếm sự thật. Sự thật là hai chữ thiêng liêng nhất của báo chí.
Những năm gần đây, hợp tác báo chí không biên giới được đẩy mạnh. Báo chí Việt Nam đang phát triển và tỏ rõ sức mạnh. Chúng ta không thua kém thế giới kể cả về công nghệ và chất lượng thông tin.
- Cảm ơn cuộc trò chuyện thú vị của ông.