TIN TỨC

Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-20 11:02:41
mail facebook google pos stwis
983 lượt xem

NGUYÊN HÙNG  / Nguồn: 

(Chuyên mục "Tiếng nói nhà văn" của báo Văn nghệ, số 25, ngày 21/6/2025)

Trong một thế kỷ qua, báo chí cách mạng Việt Nam đã trở thành một phần không thể thiếu của dòng chảy văn hóa Việt. Trong dòng chảy đó, biết bao ngòi bút nhà thơ, nhà văn đã góp phần giữ lửa cho trang báo, đồng thời mang lại sự lãng mạn, sâu sắc và đắm đượm tình người cho nghề báo. Dù là văn thơ hay báo, ngòi bút chân chính đều đặt trên nền tảng của lòng trắc ẩn và khát vọng về sự thật.

Tôi lớn lên giữa thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ, nên những năm tháng ấy, sự đọc của tôi hầu như chỉ quanh quẩn với mấy tờ báo dễ tìm nhất thời bấy giờ: nhật báo Nhân Dân và tuần báo Văn Nghệ. Đây là những ấn phẩm tôi đặt dài kỳ qua bưu điện, nên có thể nói rằng, một cách tự nhiên, tuổi thơ tôi lớn lên trong cái bóng của những tờ báo nổi tiếng này… Cũng từ đó, có một điều gì đó rất sâu kín trong tôi luôn nhói lên mỗi khi bắt gặp một tờ báo cũ nằm lặng lẽ nơi quán nước, hay một trang bản thảo nhòe chữ trong cơn mưa. Với tôi, đó không đơn thuần là giấy mực. Đó là máu, là mồ hôi, là thời gian, là những giấc mơ đã được đổ cạn. Dù mang danh là nhà thơ, dù cuộc sống tinh thần của tôi có những vần thơ bay bổng, nhưng mối duyên nợ với báo chí, với những trang giấy thô mộc ấy vẫn gắn bó sâu sắc một cách lạ kỳ. Có lẽ bởi, suy cho cùng, dù là thơ hay báo, chúng đều được sinh ra từ cùng một mạch nguồn: lòng trắc ẩn và khát vọng hướng tới những điều tốt đẹp cho cuộc đời.

Ngày 21 tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), tờ báo Thanh niên ra đời do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Đó không chỉ là sự kiện khai sinh của một tờ báo, mà là hạt mầm đầu tiên gieo xuống mảnh đất khô cằn của thực dân, ươm mầm cho một nền báo chí hoàn toàn mới – Báo chí Cách mạng Việt Nam. Tròn một thế kỷ đã trôi qua, một trăm năm đủ để những trang giấy năm xưa ngả màu thời gian, nhưng tinh thần, khí phách của những người làm báo cách mạng thời ấy thì vẫn vẹn nguyên, không hề phai nhạt.

Chúng ta vẫn thường hình dung về những nhà báo tiền bối với dáng vẻ uy nghiêm, trí tuệ. Nhưng có mấy ai thực sự cảm nhận được rằng, mỗi bài viết của họ, mỗi dòng tin tức, mỗi lời hiệu triệu, đều được đánh đổi bằng xương máu, nước mắt và cả mạng sống? Họ là những người viết dưới hầm tối, trong nhà tù, hoặc từ những chiến khu ác liệt. Ngòi bút của họ không chỉ là công cụ truyền tải thông tin, mà là vũ khí sắc bén, là lời hiệu triệu thức tỉnh lòng dân, là ngọn lửa nhen nhóm khát vọng độc lập, tự do. Từ các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu đến những chiến sĩ cách mạng vô danh, tất cả đều viết với một tinh thần “vị quốc vong thân”. Từng con chữ, từng câu văn không chỉ mang tin tức mà còn mang theo sinh mệnh, mang theo nỗi khắc khoải của dân tộc đang chìm trong đêm tối. Đó là những "trang giấy đã cháy một thời" – cháy lên từ lòng yêu nước nồng nàn, từ lý tưởng bất khuất, từ máu và nước mắt thấm đẫm từng con chữ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với những số báo đầu tiên,
đánh dấu sự ra đời của nền báo chí cách mạng Việt Nam - Ảnh tư liệu.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945 và trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ, báo chí cách mạng tiếp tục trở thành tiếng nói của tiền tuyến và hậu phương, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Những nhà báo - chiến sĩ, vừa cầm súng vừa cầm bút, đã có mặt ở những điểm nóng nhất, ghi lại những khoảnh khắc lịch sử, cổ vũ tinh thần chiến đấu, xây dựng quê hương. Mỗi bản tin từ chiến trường, mỗi bài phóng sự về cuộc sống gian khổ mà lạc quan ở hậu phương, đều là những viên gạch xây nên bức tường thành ý chí kiên cường của dân tộc. Họ không chỉ là người đưa tin mà còn là nhân chứng sống, là người truyền lửa, là hiện thân của tinh thần yêu nước và dấn thân không ngừng nghỉ.

Báo chí và văn chương, hai dòng chảy tưởng như riêng biệt, nhưng kỳ thực lại có một mối giao duyên sâu sắc, bền chặt. Từ bao đời nay, báo chí vẫn luôn là "đất lành" để văn chương nương náu, cất tiếng. Những áng thơ, truyện ngắn, tùy bút, ký văn học đã tìm thấy mảnh đất màu mỡ để ươm mầm và lan tỏa trên các trang báo, tạp chí. Đó là nơi văn chương được tiếp cận đông đảo công chúng, thực hiện chức năng phản ánh, định hướng và bồi đắp tâm hồn.

Nhắc đến báo chí, ta không thể không nghĩ đến những nhà văn, nhà thơ lớn đã từng là nhà báo, từng cầm bút trên những tờ báo lớn nhỏ. Từ thế hệ đầu tiên với những tên tuổi như Nguyễn Tuân – bậc tùy bút gia xuất sắc với ngòi bút tài hoa từng viết cho Tao đàn, Tiền phong; Tố Hữu – nhà thơ cách mạng kiệt xuất từng tham gia biên tập Cứu quốc, Sự thật; Xuân Diệu – "ông hoàng thơ tình" cũng góp sức cho Thanh niên, Tiền phong; Chế Lan Viên của Điêu tàn đến Ánh sáng và phù sa cũng đồng hành cùng Thống nhất, Văn nghệ; Nguyễn Đình Thi – tác giả Đất nước và vai trò biên tập viên Văn nghệ, Tạp chí Văn học; hay Nam Cao với hiện thực sắc lạnh trong Chí Phèo cũng từng viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo và sau này tham gia Cứu quốc.

Đến những thế hệ tiếp nối sau này, mối duyên văn chương – báo chí vẫn tiếp tục bền chặt. Có thể kể đến Nguyễn Khải với những trang ký sự chiến tranh sâu sắc trên Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội; Phạm Tiến Duật – nhà thơ "Tiểu đội xe không kính" vừa là phóng viên mặt trận của Báo Quân đội Nhân dân; Hữu Thỉnh – với những vần thơ Sang thu và vai trò lãnh đạo báo Văn nghệ; Nguyễn Quang Sáng – nhà văn tài hoa của Chiếc lược ngà từng gắn bó với Văn nghệ, Sông Hương. Và đến thế hệ hiện tại, những cái tên như Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Trần Đăng Khoa – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Nguyễn Thúy Quỳnh – người cầm chịch Văn nghệ Thái Nguyên, Như Bình - Trưởng ban Chuyên đề Báo Công an Nhân dân, Phạm Thùy Vinh – Tổng biên tập Tạp chí Sông Lam… và nhiều cây bút khác, vẫn đang hàng ngày miệt mài với cả trang văn và trang báo, làm phong phú thêm đời sống văn học và báo chí nước nhà.

Ngược lại, báo chí cũng là môi trường rèn giũa, thôi thúc người cầm bút phải gắn liền với thực tiễn, với cuộc sống. Nó đòi hỏi sự nhạy bén, tốc độ, nhưng không đánh mất chiều sâu tư tưởng và trách nhiệm. Trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin như hiện nay, vai trò của báo chí chân chính, báo chí cách mạng càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Hơn lúc nào hết, cần những ngòi bút "của trái tim không yên ổn" (như lời nhà báo Hữu Thọ), dám phản ánh sự thật, bảo vệ cái đẹp, và thức tỉnh lương tri.

Nhà thơ Hữu Thỉnh ký tặng thơ cho độc giả tại buổi ra mắt sách “Giao hưởng Điện Biên”, 4-2024

Với vai trò là Trưởng Ban biên tập website Văn chương TP. Hồ Chí Minh – trang web của Hội Nhà văn TP.HCM, tôi hiểu rằng, trong bối cảnh truyền thông số, website của chúng tôi phải là một "cầu nối" hiệu quả giữa báo chí và văn học. Chúng tôi không chỉ đăng tải những tác phẩm văn học thuần túy mà còn biên tập, giới thiệu những bài viết mang tính thời sự, những góc nhìn văn học về các vấn đề nóng bỏng của xã hội. Chúng tôi cố gắng giữ "chất văn" trong từng bài đăng, dù là một tin tức ngắn về hoạt động của Hội hay một bài phê bình văn học dài. Bởi lẽ, báo chí, xét cho cùng, cũng là một dạng ký ức tập thể được viết bằng ngôn ngữ của trái tim, bằng cảm xúc và sự chiêm nghiệm. Thông qua đó, chúng tôi mong muốn tiếp nối sứ mệnh của báo chí cách mạng: không chỉ truyền tải thông tin mà còn định hướng giá trị, gieo mầm cái đẹp, và hun đúc lòng nhân ái trong cộng đồng.

Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, chúng tôi muốn tri ân các thế hệ nhà báo, những người cầm bút đã đổ mồ hôi, xương máu, và tâm huyết để làm nên một nền báo chí vẻ vang. Họ đã dùng ngòi bút như một vũ khí sắc bén, chiến đấu cho độc lập, tự do, và xây dựng đất nước.

Với tôi, một nhà thơ cũng có tham gia viết báo, mỗi con chữ đặt xuống không chỉ là để thông tin hay để ca ngợi, mà còn là một hành vi của tình yêu thương và trách nhiệm. Dù là viết tin ngắn hay bài báo dài, dù để in báo giấy hay đăng báo điện tử, mỗi con chữ đều phải được chắt lọc từ sự thật, thăng hoa từ cảm xúc chân thành, và được viết bằng cả tấm lòng. Ngòi bút ấy, dù là thơ hay báo, vẫn luôn là vũ khí của sự thật, của cái đẹp, của lương tri, như cha ông ta đã truyền lại.

Một thế kỷ đã trôi qua, bao thăng trầm, biến động, nhưng ngọn lửa của báo chí cách mạng, của văn chương yêu nước vẫn mãi cháy sáng. Đó là ngọn lửa của niềm tin, của khát vọng cống hiến, và của tình yêu vô bờ bến dành cho Tổ quốc và nhân dân.


Mời đọc các bài viết đăng chuyên mục "Tiếng nói nhà văn" báo Văn nghệ của cùng tác giả:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm