TIN TỨC

Vũ Hồng ngân lên Đoản khúc số 8

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-09-24 11:36:40
mail facebook google pos stwis
3627 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Mấy năm trước, nhà văn Vũ Hồng ra mắt tập thơ với tựa đề mang ý tưởng rất lạ và thú vị, dễ gây sự tò mò cho bạn đọc: Đoản khúc số 8. Lại còn chọn khổ tập thơ 19x19cm, khá ngộ nghĩnh. Suy cho cùng đây thường là cái tạng của người nghệ sĩ đa tài khi đặt tựa dù là truyện ngắn hay thơ. Bởi “Nghệ thuật là không lặp lại chính mình và không lặp lại của người khác”. Ai đó đã từng nói như thế.

Nhà văn Vũ Hồng

Tựa thơ anh có Bài ca trái ớt, Ký họa giọt mưa… Truyện ngắn có Một, hai ba và bốn, Móng tay vầng trăng khuyết, Tiếng chuông trôi trên sông… Chính truyện ngắn Tiếng chuông trôi trên sông hơn hai mươi năm trước đã làm nên tên tuổi của anh ở tuổi ba mươi, qua cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân Đội. Và, sau đó anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam trẻ nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ. Truyện ngắn này đã được chuyển thể thành phim cùng tên do nữ Nghệ sĩ Nhân dân Kim Xuân thủ vai chính.

Anh có hơn hai mươi năm công tác biên tập cho Tạp chí Văn nghệ Bến Tre, (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Hàm Luông – Bến Tre) từng có nhiều nhiệm kỳ là Ủy viên hội đồng Văn xuôi và Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam rồi Trưởng Chi nhánh Tây Nam Bộ của Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Trong tập thơ này anh chọn đúng năm mươi bài. Trong đó có chín bài đoản khúc được đánh số, từ số năm đến số mười bốn. Đây là tập thơ thứ ba của anh sau tập Tháp bụi và tập Người phương Nam.

Anh thành danh cả truyện ngắn lẫn thơ. Thi phẩm Người phương Nam của anh được lưu giữ ở Phòng Văn học Ban văn nghệ của Đài tiếng nói Việt Nam hơn mười năm qua. Thỉnh thoảng được phát lại trong chương trình Tiếng thơ do nghệ sĩ Văn Chương diễn ngâm. Người phương Nam được xem là bài thơ khắc họa về tính cách, tâm tư, tình cảm của người Nam Bộ rõ nét nhất. Và tác phẩm này cũng được đưa vào giảng dạy phần văn học địa phương ở Bến Tre, nên càng có nhiều đối tượng bạn đọc biết tới. Đọc bài thơ Người phương Nam tôi lại liên tưởng rằng Vũ Hồng sáng tác tác phẩm ấy như đi dạo ngoài vườn hoa rồi nhẹ nhàng, thư thái với tay ngắt cành hoa tặng cho bạn đọc vậy. Bởi với tài hoa và khí chất hào hiệp, ngang tàng của Vũ Hồng rất “người phương Nam”:

Trăng phương Nam như tan trong sương
Người phương Nam cạn chén hồ trường
Từ giã kinh kỳ bạc lau lách
Đuổi thú hung tàn dạt biển Đông…

Người phương Nam đi thì cứ đi
Một chiếc ghe con có sá gì
Đời lắm phong trần nên lỡ hẹn
Không cần danh vị, bỏ vinh quy…

Hay với một khổ khác:

Người phương Nam say thì say trọn
Người phương Nam buồn thì buồn sâu
Nỗi nhớ cố hương còn chếnh choáng
Văng vẳng ầu ơ… giọng ví dầu

Thơ Vũ Hồng về sau dần “chảy xuôi” theo hướng trường phái thơ hiện đại. Khác với lúc đầu nhiều bài thơ của anh mang phong vị cổ thi, như bài Người phương Nam và nhất là những bài lục bát:

Trải qua mấy độ thu tàn
Ai đem sương giá rắc ngang lưng trời
Nỗi Hầu Vương, xót lệ rơi
Ngũ Hành Sơn ấy – bể đời trần luân
Tiếc cho một thuở tung hoành
Tự do giữa cõi non xanh sá gì
Mắc lời lừa dối từ bi
Để giờ ôm đá xanh rì cỏ rêu
(Tâm sự hầu vương).

Hay ở trường hợp khác:

Rượu chiều đón giá tịch liêu
Thẩn thờ vòm táo buồn hiu giữa trời
Cớ sao không nói một lời
Hồn như gần lắm cõi đời hoang sơ

Bạn về dệt trọn kiếp thơ
Thân tâm nhả kén mù mờ nhân gian
Thì thôi rượu cứ chảy tràn
Tay run, gió thoảng bóng nàng chìm đâu…
(Viết ở quán Cây Táo)

Trong cuộc sống anh là người quảng giao, cởi mở, xề xòa. Tuy nhiên, trong thơ anh rất chắt chiu, kỹ tính chưng cất từng con chữ như giọt rượu quí rót ra, ngõ hầu mang đến cho mọi người thưởng thức. Giọng thơ anh từ tốn, chậm rãi, trầm tích tính nhân văn dễ chạm đến trái tim người đọc đến ám ảnh, bồi hồi:

Ngoài phố
Rơi tiếng chim non
Đói lả

Hắn đến khu vườn lạ
Khẩu súng săn
– và hắn ra đi

Nửa đêm trở giấc
Tiếng chim lâm ly
Mất mẹ

Bên nhà khe khẽ
Vợ hắn cầu kinh
(Tiếng chim lạc loài)

Thơ kiệm ngôn và không giãi bày. Như thế mới khiến cho người đọc phải cùng tác giả “sáng tác thêm”. Như một thi hào Pháp đã từng bảo: “Tôi làm thơ chỉ làm một nửa, một nửa để độc giả làm”. Thơ của anh là thứ thơ để đọc chầm chậm bằng trái tim chứ không phải để đọc bằng mắt. Khi ngồi ở giảng đường đại học anh học chuyên sâu về ngữ âm học, nên anh bao giờ cũng chủ động tổ chức ngôn từ cho thơ có tiết điệu, nhạc tính du dương. Dù là thơ tự do hay thơ văn xuôi. Cũng như thơ lục bát của anh cũng không hề có những chữ bị ép vận.

Vũ Hồng thơ cũng như văn tuy người đọc không bắt gặp nhiều tứ lạ, song ý và tình thì vô cùng chan chứa. Đặc biệt đều có giọng sang trọng như nhà văn Đỗ Chu từng khen ngợi, khiến cho người đọc hình dung ra một tài tử hào hoa, lịch lãm điều đó cũng không sai:

Tiễn bạn chiều vàng rơi bến sông
Người đi hồ hải cõi non bồng
Ngàn lau tóc trắng hong sương khói
Nhà có buồn tênh, ai ngóng trong
(Tiễn bạn)

Hay ở trường hợp khác, cảnh huống khác giọng thơ buồn buồn nhưng không kém sang trọng khi đề tặng Kim Ba:

Đêm quê trăng thức đầu thềm
Căn nhà nhỏ nép bên triền sông con
Bóng người đốt rạ héo hon
Như đàn dế cũ nỉ non chân đồng…

Chuông chùa xa giọt trầm buông
Mấy vì sao mảnh rơi lòn mái quê
Thì thôi khói rạ tái tê
Lim dim làng mạc bốn bề quạnh hiu…
(Đêm quê)

Tuy nhiên, bên cạnh, Vũ Hồng cũng có những câu thơ ngồ ngộ, khiến người đọc vò đầu bứt tóc. Chẳng hạn như: “Ô hô, dòng sông sinh thành/Ô hô, dòng ông hùng anh…”. Hay: “… Cắm câu mò cá tình đầu…”

Nếu đúng là thơ thì bao giờ cũng có độ ngân – Ngân lên tiết điệu, đa tầng, đa nghĩa khiến cho người đọc bị ám ảnh, bâng khuâng một cách ngọt ngào, thú vị. Thế nên có viết mãi cũng không cùng. Lại tập thơ Đoản khúc số 8 của Vũ Hồng đến những năm mươi bài, mà viết cho cạn tỏ là điều khó mà đạt tới sự mong muốn của tác giả lẫn bạn đọc. Bên cạnh còn tùy vào giác độ của từng người cảm thụ, tiếp cận ở giác độ khác nhau.

Đoản khúc số 8 của Vũ Hồng không có những tác phẩm “còn trinh” (chữ của Huy Cận) nhằm thỏa mãn sự chờ đợi của bạn đọc. Hầu hết anh tuyển chọn những bài thơ của những tập thơ trước. Tiếc quá! Chẳng lẽ anh tắt tỵ lâu đến vậy chăng? Nhưng không, mấy năm trước, sau khi đi Hàn Quốc về anh có đăng nhiều bài thơ theo thể… ký sự, đọc cũng thấy là lạ, thích thích.

P.B.A.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm