TIN TỨC

Bảo Lộc - người thơ ở lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-15 09:46:38
mail facebook google pos stwis
408 lượt xem

ĐÀO ĐỨC TUẤN

Ta đến đây/ Khác với mây/ Là ở lại”. Đi Bảo Lộc đầu năm 2025, có 3 người thơ tôi muốn gặp là thi sĩ Bùi Thanh Tuấn (đang bệnh), nữ sĩ Thu Nguyệt (chủ Vườn thiền Thong Dong) và kỳ sĩ Nguyễn Đức Sơn (mất năm 2020). Kỳ sĩ Nguyễn Đức Sơn xin hầu bạn đọc sau vậy.


Những cơn mưa Bùi Thanh Tuấn

Trên đường lên Bảo Lộc, tôi nóng lòng gặp bạn thơ Bùi Thanh Tuấn, người viết bài thơ được nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ thành tình khúc vang danh “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”. Trước đó không lâu, nghe tin bạn bị trọng bệnh, quy cố hương. Tuấn vẫn xài FB “Bùi Thanh Tuấn (Lão Bộc)”, tôi gọi thì giọng anh như reo: “Tới ngay! Tao đang trông!”.


Nhà thơ Bùi Thanh Tuấn ký tặng sách.

Bùi Thanh Tuấn là nhà thơ, nghệ sĩ nổi tiếng là một sự thật. Bùi Thanh Tuấn là một nhà báo đa năng là một sự thật. Bùi Thanh Tuấn hào hoa, đa mang nỗi buồn là một sự thật. Đầu 2025, tôi gặp một Bùi Thanh Tuấn nhớ nhớ quên quên, cứ chực khóc khi bạn cũ đến thăm. Anh giờ đang dưỡng bệnh tại nhà, sau khi phát hiện và điều trị bệnh ung thư vòm họng.

Gặp nhau, Tuấn cứ cầm tay tôi lắc lắc, thỉnh thoảng lại nói câu “mày lên đây thăm, tao mừng quá”. Dẫu biết cuộc sống vô thường nhưng thật rưng rưng khi gặp lại thằng bạn đẹp trai, đa tài mới ngày nào còn sung mãn bạt ngàn, giờ phải chống gậy run run. Tuấn gầy đi rõ rệt, nước da không còn trắng hồng như lần trước tôi gặp. Giờ chủ yếu anh loanh quanh nhà, ở cùng người chị ruột và vợ chồng đứa cháu. Trên bàn thuốc men la liệt.

Chúng tôi xin phép đưa Tuấn đi chơi Bảo Lộc phố. Dẫu quên nhiều chuyện gần đây nhưng anh vẫn còn nhớ vanh vách “đã từng 2 lần cưới vợ. Không có con. Giờ ở một mình. Học Sài Gòn. Ở mấy năm Hà Nội. Làm phim cho HTV, Phương Nam. Mở Cà phê Lão Bộc tại Bảo Lộc. Đi Âu, đi Á, ở Mỹ mấy năm. Rồi về lại quê…”. Ngồi trên taxi, Tuấn trầm ngâm “mấy tháng nay tao mới lại ra phố”. Trên đường, anh chỉ nơi này xưa Trịnh Công Sơn ở trọ, nơi kia xưa anh thuê mặt bằng mở Cà phê Lão Bộc, khuôn viên này xưa là trường kỹ nghệ đẹp nhất Đông Dương… Bạn bè Bảo Lộc vẫn thương quý tận tâm với Tuấn. Hễ anh gọi là họ đến ngay.

Bùi Thanh Tuấn nhỏ hơn tôi 3 tuổi nhưng vẫn mày tao như từ buổi đầu. Anh sinh năm 1974 tại Bảo Lộc, Lâm Đồng. Cuối năm 1992, anh viết bài thơ “Chia tay người Hà Nội” để tặng một người bạn gái. Hè 1993, nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ bài thơ và dựa câu đầu đặt tên “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”. Rất nhanh chóng, bài hát đi vào lòng công chúng.

Bùi Thanh Tuấn cho hay: “Nhạc và thơ trong “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” có một mối tình đẹp. Chỉ trong 24 tiếng sau khi “lãng tử Hà thành” Trương Quý Hải phổ, bài hát đã có một đời sống riêng. Rồi phải 3 năm sau khi viết bài thơ “Chia tay người Hà Nội”, tôi mới lần đầu tiên đặt chân đến Hà thành. Tôi viết về Hà Nội bằng tưởng tượng, hình dung của riêng mình. Mà tưởng tượng bao giờ cũng lung linh…”.

Gặp nhau lần nào cũng thấy Tuấn hào sảng nói cười, yêu bạn bè vô tư lợi. Có lúc anh tư lự “mình “ăn” bài “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” nhiều quá…”. Thế nhưng mấy ai trong nhóm chúng tôi sớm tạc dạ công chúng được như anh. Đến nay, Bùi Thanh Tuấn đã in 2 tập thơ: “Còn chút tình riêng trong mắt nhau” (2000) và “Phiên bản” (2008). Tôi moi trong tủ sách của anh còn mấy cuốn “Phiên bản”; cuối bìa 4 có “dọa” sắp in 3 cuốn: “Hạnh phúc chỉ là lời nói dối”, “Tứ tuyệt cà chớn”, “Tứ tuyệt tình”. Ngoài sáng tác thơ, anh là người làm phim tài liệu, viết du ký tài hoa. Anh còn là ca sĩ, nhạc sĩ sáng tác những ca khúc “số má” như “Ru lòng khờ dại”, “Phúc âm buồn”…

Bùi Thanh Tuấn từng tâm sự: “Thành công đến sớm cũng là một bài học đời dạy mình. Dường như tôi chỉ muốn quên đi hết ngày hôm qua mình là ai, từng là gì, làm được gì, đau khổ hân hoan ra sao… Tôi chỉ giữ đúng niềm hãnh diện là mình luôn đã là chính mình, trung thành với một con người mơ mộng nhưng trần trụi vốn có. Tôi đã kiếm được tiền nhiều nhưng cũng bằng cách lương thiện và cũng đã sống những ngày “tận đáy” một cách kiêu hùng. Nếu có nợ, tôi chỉ nợ ân tình. Đời tôi thế mà lại vui! Tôi chưa qua hết đời người nên tôi không khẳng định được đời mình thành công hay thất bại”.
 

Thong dong Thu Nguyệt

Chưa đến Vườn thiền Thong Dong, tôi đã nghe danh nữ sĩ Thu Nguyệt. Rất nhiều người đã hết sức xúc động khi biết câu chuyện về hai người đàn ông có “dính dáng” đến cuộc đời chị. Đó là người chồng họa sĩ Việt Hải (Đặng Ca Việt) với cái chết không ngờ giữa độ sung sức. Và một chút “duyên nợ” của nhà thơ Bế Kiến Quốc với lời thơ bài hát “Ngẫu hứng lý qua cầu” (nhạc Trần Tiến) viết khi “say nắng” cô gái trẻ Thu Nguyệt.

Nhà thơ Bế Kiến Quốc viết bài thơ “Lý qua cầu” ngày 16/7/1984 tại thị xã Cao Lãnh, Đồng Tháp; sau in trong tập “Lời nói”. Bài thơ: Bằng lòng đi em…/ Nhưng má anh đã mất/ Mịt mù xa Nam - Bắc khó đưa dâu/ Bằng lòng đi em…/ Nữa mai rồi cách mặt/ Chuyện tâm tình muốn nói dễ chi đâu/ Bằng lòng đi em…/ Dẫu chỉ nhờ câu hát/ Có chiếc xuồng ba lá của riêng nhau/ Bằng lòng đi em…/ Mỗi khi buồn muốn khóc/ Một mình anh ca điệu lý qua cầu

Ngay sau nghe Bế Kiến Quốc đọc bài thơ, nhạc sĩ Trần Tiến đã hứng khởi phổ thành ca khúc “Ngẫu hứng lý qua cầu”. Bài hát lập tức bay xa, được công chúng nồng nhiệt hòa điệu.

Về cái duyên với người thơ tài năng này, chị Thu Nguyệt cho hay: “Đối với tôi, anh Bế Kiến Quốc là một người anh, một người thầy, một người bạn thơ vô cùng thiêng liêng. Tôi may mắn được gặp anh vào năm 1984, trong trại sáng tác văn học Đồng Tháp lần thứ nhất. Năm ấy, tôi là một con bé nhà quê, sinh viên Trường Sư phạm, mới tập tễnh bước vào lĩnh vực văn chương, tôi đã được anh tận tình chỉ bảo. Anh đã dạy tôi từ cách đọc và hiểu thế nào là một bài thơ hay đến những kỹ thuật sơ đẳng nhất của một người sáng tác”.

Nhà thơ Thu Nguyệt cho biết thêm: “Tôi và anh Bế Kiến Quốc trân trọng nhau nhưng chưa hề cầm tay, không một lần đụng chạm. Khi ra Hà Nội học Trường viết văn Nguyễn Du, tôi hồn nhiên đến nhà chơi khi vợ anh Quốc (nhà thơ Đỗ Bạch Mai) nhắn mời. Tôi đâu biết là lúc đó anh Quốc tỏ ra rất khó xử. Có người biết chuyện nói với tôi: “Mày dại quá! Bà Mai đang ghen mày ghê lắm!Vậy mà dám đến nhà người ta?!”. Thế nhưng sau đó, hai chị em tôi lại hết sức thân thiết”.

Sau này, khi nhà thơ Bế Kiến Quốc mất, chị Đỗ Bạch Mai đã cần mẫn lục lại, nâng niu từng bài thơ của anh viết cho mình và cho nhiều cô gái khác (trong đó có bài thơ “Lý qua cầu”) để in sách.


Nhà thơ Thu Nguyệt giữa Vườn thiền Thong Dong.

Về người chồng tài hoa của nhà thơ Thu Nguyệt (họa sĩ Việt Hải), nhà văn Trần Quốc Toàn hồi ức: “Trong thư viện Việt Hải có loại sách quý hiếm mà ít thư viện có được, đó là loại sách cả nhà cùng làm, vợ ngẫu hứng thì chồng định hình, mẹ viết thì con vẽ, vợ rút ruột ý tứ đợi chồng bao bìa hoàn thiện tác phẩm… Sách ấy là các tập thơ “Điều thật”, “Ngộ”, “Cõi lạ”, “Hoa cỏ bên đường” của bà Việt Hải, nhà thơ Thu Nguyệt. Những sách ấy, những tập thơ ấy, chồng Việt Hải vẽ bìa, ba cô con gái Hải Thi, Hải Thư, Hải Tú vẽ phụ bản, sách ấy vừa là sản phẩm lao động của cả nhà vừa là thú chơi sang trọng và không tốn kém của những gia đình chỉ biết sống bằng giấy bút, bằng phím chữ và mực in, bằng màu và cọ… đó là nhà vợ chồng Hải - Nguyệt và các con. Nhà ấy, kể từ 9h30 thứ tư, ngày 18/6/2003 đã mất một người. Việt Hải đã chết, chết trẻ 44 tuổi vào ngày ấy vì tai nạn giao thông, chết trên đường làm công việc của một họa sĩ trình bày báo, trên đường đi lấy một tấm hình, đặt vào ô trống trên trang báo anh đang trình bày dở dang”.        

3 năm sau khi họa sĩ Việt Hải mất, đến năm 2006, nhà thơ Thu Nguyệt mua được mấy sào đất ở Bảo Lộc. Rồi khi về hưu (năm 2018), chị quyết định rời Sài Gòn về hẳn Bảo Lộc để gầy dựng Vườn thiền Thong Dong, tại địa chỉ đường Lê Thị Riêng, xã Lộc Châu, TP Bảo Lộc, Lâm Đồng. Rất nhiều khó khăn khi một thân xây cơ ngơi giữa ngút ngàn núi đồi. Thế nhưng chị đã kham nhẫn vượt qua trong niềm vui lao động và tu tập.

Nữ sĩ Thu Nguyệt chia sẻ: “Thật thú vị khi mình được sống trong khu vườn do chính mình gây tạo. Tự do và hợp ý. Việc sáng tác thì tùy duyên và cảm xúc thôi. Tôi mong luôn giữ được khu vườn thanh tịnh, xanh tươi, ngập tràn năng lượng tích cực. Tôi sẽ được sống bình yên, thong dong. Tôi cũng mong vườn thiền sẽ là một địa chỉ yêu thương. Tôi nghĩ điều đó mang lại lợi ích cho mọi người. Và đó cũng là chút đóng góp của tôi cho cuộc đời này”.

Nguồn: Văn nghệ Công an.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm