TIN TỨC

Thời đương đại nghe lời thơ lục bát ru tình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-24 08:45:04
mail facebook google pos stwis
932 lượt xem

Bằng cảm quan nhạy bén của một người đọc thơ và nghiên cứu văn chương, tiến sĩ Hà Thanh Vân đã có bài viết tinh tế về tập thơ Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau – tập thơ thứ ba của nhà thơ Đoàn Thị Diễm Thuyên, hội viên Hội Nhà văn TP. HCM, vừa ra mắt bạn đọc vào sáng 22/6/2025.

Chọn thể thơ lục bát – thể thơ truyền thống tưởng chừng cũ kỹ – Diễm Thuyên không làm cách tân hình thức, mà thổi vào đó một ngữ khí mới, chất liệu đời thường, nhịp điệu nữ tính hiện đại, để thơ vừa mềm mại vừa day dứt, vừa ru vừa rưng.

Diễm Thuyên không chỉ viết về tình yêu, mà còn khắc họa thân phận người phụ nữ đương thời – khao khát yêu, chủ động yêu, chịu đựng và bao dung, với tất cả sự mỏng manh và bản lĩnh. Bài viết của TS Hà Thanh Vân chỉ ra: dù thơ Diễm Thuyên có mượn giọng “ru” truyền thống hay ngôn ngữ “phi thơ” đời thường, thì điểm đến cuối cùng vẫn là tình cảm chân thành và vẻ đẹp nội tâm thầm thì của một người nữ làm thơ giữa đời sống hiện đại.

Văn chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết này đến quý độc giả.
 

Tiến sĩ HÀ THANH VÂN

Người nữ làm thơ lục bát giữa lằn ranh truyền thống và hiện đại

Đoàn Thị Diễm Thuyên là một tác giả nữ đã gặt hái một số thành công trong lĩnh vực thơ ca. Cô sinh năm 1980, quê quán tại huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Hiện nay Diễm Thuyên làm biên kịch phim ở TPHCM. Cô là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre và là Hội viên Hội Nhà văn TPHCM.

Đoàn Thị Diễm Thuyên làm thơ từ khá sớm, khi mới 19 tuổi và đã có nhiều tác phẩm trong các tập thơ in chung. Nhưng khá lặng lẽ và kỹ lưỡng, cầu toàn với thơ ca, Diễm Thuyên chỉ mới cho ra mắt hai tập thơ “Để con về nhà hỏi má” (2017) và “Trời mưa cho ướt” (2018). Tuy vậy, khả năng văn chương của Đoàn Thị Diễm Thuyên đã được ghi nhận qua các giải thưởng như: Giải Ba cuộc thi Thơ Lục bát 2019 do Tập san Áo Trắng và Nhà xuất bản Trẻ tổ chức, giải Ba cuộc thi Thơ và Tạp bút “45 năm rực rỡ tên vàng” năm 2021 của Báo Người Lao Động, giải Tư cuộc thi thơ “Nhân nghĩa đất phương Nam” năm 2021, giải Ba cuộc thi thơ dành cho phụ nữ trên Tạp chí Lang Bian lần III năm 2022. Gần đây Diễm Thuyên nhận giải Nhì đồng hạng (không có giải Nhất) cuộc thi Thơ 1-2-3 năm 2025 do Trang Văn học Sài Gòn và Trang Nhịp sống Văn học tổ chức. Có thế mạnh ở thể thơ lục bát và bản thân cũng chọn lục bát là thể thơ yêu thích để sáng tác, năm 2025, Diễm Thuyên cho ra mắt độc giả tập thơ thứ ba mang tên “Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau” do NXB Hội Nhà văn ấn hành.

Theo lời của chính tác giả, tập thơ này có hai chủ đề: RU và MƯỢN, mà hàm ý của nó đã thể hiện ở ngay nhan đề của tập thơ. Chọn một thể thơ truyền thống, quen thuộc, dễ làm, nhưng lại khó làm cho hay, Đoàn Thị Diễm Thuyên đã tự thách thức chính mình. Thật ra thể thơ lục bát - một thể thơ dân tộc rất đặc trưng của Việt Nam - hoàn toàn có thể làm theo phong cách hiện đại, cách tân. Trên thực tế, nhiều nhà thơ đương đại của Việt Nam đã và đang thử nghiệm điều này. Có người thành công và cũng có người chưa gây được ấn tượng. Song điều quan trọng là những thể nghiệm đó chứng tỏ thơ lục bát vẫn có sức sống mãnh liệt và có vị trí quan trọng trong cảm hứng sáng tác, tư duy nghệ thuật của những nhà thơ đương đại.

Và Đoàn Thị Diễm Thuyên đã nỗ lực mang hơi thở mới mẻ của đời sống, tâm tư, tình cảm của con người đương đại để thổi hồn vào thể thơ lục bát truyền thống. Thơ lục bát của Đoàn Thị Diễm Thuyên mang đậm chất nữ tính, kết hợp giữa những yếu tố truyền thống và màu sắc hiện đại. Cô sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc, thể hiện qua những hình ảnh đời thường và cảm xúc chân thành.

Giữ khung luật truyền thống nhưng làm mới nội dung theo kiểu “phi thơ” và phá cách ngôn từ

Đoàn Thị Diễm Thuyên giữ đúng niêm luật thơ lục bát truyền thống. Cô không phá cách lục bát như nhiều nhà thơ hiện đại, mà vẫn tôn trọng nhịp 2/2/2 hoặc 3/3, gieo vần bằng ở chữ 6, vần chân ở chữ 8. Điều này giúp thơ cô dễ đọc, dễ thuộc, gần với dân ca và ca dao.


Nhà thơ Đoàn Thị Diễm Thuyên và Tiến sĩ Hà Thanh Vân (phải)

Khi ra mắt tập thơ thứ ba “Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau”, Đoàn Thị Diễm Thuyên đã chia tập thơ thành hai chủ đề, với hai phần rõ rệt. Phần một “Lục bát ru anh” gồm 34 bài, mỗi bài thơ đều được mang tên chung là “Ru anh” và đánh số thứ tự từ 1 đến 34. Phần hai là “Lục bát mượn” gồm 30 bài thơ thì trong nhan đề mỗi bài thơ đều có một chữ “mượn”. Chẳng hạn như “Cho em mượn một bờ vai”, “Cho em mượn thử lá gan”, “Cho em mượn cánh tay này”, “Cho em mượn chiếc răng khôn”… Có khá nhiều bài thơ lục bát của Diễm Thuyên đề cập đến việc mượn một bộ phận thân thể của nhân vật “anh”, từ bờ vai, bờ môi, vòng tay, máu tim, lá gan, ngón tay v.v… Sự độc đáo và khác lạ này có lẽ là bắt nguồn từ ý tưởng và cảm quan nghệ thuật của nhà thơ muốn thể hiện sự gắn bó, giao hòa giữa hai con người “em” và “anh”, trong đó nhân vật nữ xưng em là ở thế chủ động. Chủ động đến với tình yêu, chủ động vun đắp tình cảm, chủ động sống, chủ động gắn bó đời mình… để không hối tiếc vì đã sống như thế, cho dù ngày mai, ngày sau có thể là chia xa, ly biệt.

Cho em mượn một bờ vai

Tựa vào đêm tận rồi mai trả người.

(Cho em mượn một bờ vai)

Và:

Em mượn một chút rồi thôi

Cho qua cơn bão ngang đời em đang…

(Cho em mượn phía sau lưng)

Thơ lục bát có luật rất đặc trưng: dòng 6 và dòng 8, gieo vần lưng. Đoàn Thị Diễm Thuyên vẫn giữ khung luật này, thậm chí vẫn mượn một cảm hứng truyền thống là “lời ru”, nhưng thổi hồn tình cảm vào thành “lời ru anh”. Từ đó nhà thơ viết về những đề tài hiện đại như: chuyện kinh doanh, chiến tranh hờn ghen tinh thần, thời đại số hóa, sự cô đơn hiện sinh, những bi hài trong đời sống thường nhật, chút vô thường Phật giáo… tất cả được lồng ghép trong những lời ru tình yêu dành cho đối tượng “anh” như một cách tạo ra những nghịch lý thơ rất thú vị:

Em trở lại là “đàn bà”

Để mong anh trở lại là “đàn ông”

Thế mà sắc sắc không không

Em ru anh giữa đêm đông buốt lời

(Ru anh 16)

Hay:

Ru anh lòng bớt nhỏ nhen

Từ khi vườn mộng biết ghen úa tàn.

(Ru anh 18)

Nhưng tất cả những đề tài hiện đại ấy đều in đậm dấu ấn đời thường và cảm xúc cá nhân của nhà thơ về tình yêu nam nữ, đặc biệt là những tình cảm gian truân, dang dở, từ đó vẽ nên thân phận người phụ nữ: chịu thương, chịu khó, cam chịu nhưng cũng đầy bản lĩnh và nhân hậu, bao dung. Những trăn trở nội tâm như nỗi cô đơn, mất mát, khát vọng yêu thương và được thấu hiểu được gửi gắm vào những lời ru anh như là những ước nguyện.

Dùng từ ngữ đời thường và đưa những chất liệu “phi thơ” vào là cách để nhà thơ Đoàn Thị Diễm Thuyên lạ hóa tác phẩm của mình. Cho nên mới có những câu lục bát với những thuật ngữ rất “kinh tế thị trường” như:

- Cho anh mượn “Quỹ niềm tin”

“Đầu tư nhanh” chỗ cuộc tình còn non

- Chỉ e quỹ rót rất giòn

Mà em hụt vốn lại còn nợ hoang?

(Cho anh mượn cả niềm tin)

Nhưng dù có “phi thơ” như thế, thì điểm đến cuối cùng vẫn là tình yêu, là sự gắn kết:

Nếu vốn của anh là… em

Tụi mình nhập lại là thêm… lãi ròng.

(Cho em mượn vốn để dành)

Thế nên cho dù có cách tân hay đổi mới ngôn từ, thì cảm xúc của Diễm Thuyên vẫn trước sau như một: cảm xúc yêu thương mê đắm và hết mình vì tình yêu.

“Tự sự đời sống” trong từng câu lục bát

Tính chất “tự sự đời sống” thể hiện khá rõ trong thơ của Diễm Thuyên. Thơ cô không quá mang nặng tính triết lý hay biểu tượng. Thay vào đó, nó giống như nhật ký bằng thơ, đầy ắp chất tự sự nhẹ nhàng, đôi khi là tâm sự nhỏ nhẹ, đôi khi là tiếng lòng bật khóc không lời, thông qua những lời ru dịu dàng. Nhiều câu thơ thể hiện sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, sử dụng hình ảnh quen thuộc để nói về tình yêu và sự chia ly. Phong cách của cô không chỉ giữ được nét truyền thống của thể thơ lục bát mà còn mang hơi thở hiện đại, phản ánh tâm hồn và suy nghĩ của người phụ nữ trong xã hội đương đại.​ Thơ lục bát của Đoàn Thị Diễm Thuyên là một sự kết tinh giữa vẻ đẹp truyền thống mang màu sắc văn hóa dân gian Nam Bộ và cảm quan hiện đại, cá nhân hóa của người sáng tác, như những câu thơ sau:

Em mượn để cười du côn

Cù nhây một trận vô ngôn hữu hình

Trả anh vết cắn bội tình

Để cho khôn dại của mình huề nhau…

(Cho em mượn chiếc răng khôn)

Ngôn từ rất giản dị nhưng đau đáu nỗi niềm, cho thấy khả năng chắt lọc xúc cảm sắc sảo. Ngôn ngữ thơ Diễm Thuyên mộc mạc, thuần Việt, mang phong vị Nam Bộ. Diễm Thuyên chọn lối viết tự nhiên, không kiểu cách, không cầu kỳ. Đây là điều làm nên bản sắc riêng của tập thơ “Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau”. Nhà thơ dùng những hình ảnh quen thuộc và không ngại đưa vào thơ những cụm từ đời sống, khẩu ngữ, thậm chí hơi... dân gian, dân dã một chút.

Ví như thương nhớ chết chìm

Xin đừng trục vớt kiếm tìm làm chi…

(Ru anh 28)

Ngôn ngữ thơ bình dân, đại chúng nhưng ẩn chứa một sức biểu đạt cảm xúc rất mãnh liệt. Trong thơ Diễm Thuyên, câu lục bát ngắn mà nặng, nhiều câu mang lại dư ba sâu lắng. Đặc biệt là cô biết “giấu nước mắt” dưới bề mặt từ ngữ, gợi nhiều hơn tả với sự nhấn nhá từ ngữ ấn tượng.

Buồn lơ lửng buồn ngẩn ngơ

Buồn trầy trật buồn vật vờ buồn tênh

Ru anh buồn rất tênh hênh

Lõa lồ cái chỗ chênh vênh rất buồn.

(Ru anh 10)

Tuy vẫn tuân theo niêm luật, nhưng Diễm Thuyên biết nhấn ở đúng chỗ để tạo điểm rơi cảm xúc, thường là ở những câu 8, hoặc dùng câu kết để lật ý, hoặc tạo sự đứt mạch cảm xúc nhẹ, khiến người đọc có biến đổi cảm xúc. Sự biến tấu linh hoạt và nhấn nhá tạo ra một giọng điệu thơ dịu dàng, tha thiết, giàu nữ tính. Thơ RU và MƯỢN của Diễm Thuyên giống như lời của một người phụ nữ Nam Bộ tâm tình thủ thỉ, đầy yêu thương nhưng không thiếu uẩn ức, phức tạp. Có lúc tha thiết như một câu ru, có lúc rưng rức như tiếng khóc, nhưng đều rất chân thành. Thơ Diễm Thuyên thường không lên gân, không “cường điệu hóa cảm xúc” như một số cây bút hiện nay, mà đặt mình giữa truyền thống và hiện đại. Dùng hình thức truyền thống, nhưng lại viết về tâm sự của con người thời hiện đại: một người phụ nữ làm nghề biên kịch, sống ở thành phố, có quá khứ quê nghèo và trái tim luôn "trôi ngược về phía yêu thương". Thơ Diễm Thuyên vì thế chênh vênh giữa lằn ranh cổ và kim, giữa quá vãng và hiện tại, giữa chân quê và thành thị. Tập thơ “Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau” cho thấy một phong cách thơ lục bát của Đoàn Thị Diễm Thuyên với nội dung chứa chan tình cảm, đầy tính nữ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, đậm chất Nam Bộ, gần với khẩu ngữ. Vần và nhịp thơ giữ đúng luật lục bát, mềm mại, có điểm rơi cảm xúc. Giọng điệu thơ tha thiết, sâu lắng, nhẹ nhàng mà ám ảnh. Đồng thời tập thơ vẫn mang một sắc thái hiện đại là viết cho đời sống hôm nay bằng “giọng nói cổ kim kết hợp” của thơ.

Tập thơ “Ru say mượn tỉnh, ru tình mượn nhau” đúng như tên gọi, là những bài thơ không gào thét, không gồng gượng, mà thầm thì, thì thầm, tạo nên một chất thơ thủ thỉ như tiếng nói của lòng mình với lòng người. Chính điều đó khiến nhiều bài thơ của Diễm Thuyên có thể đọc thành tiếng, đọc trong lòng, hoặc để lại trong trí nhớ như một bài hát không giai điệu. Bởi lẽ bất cứ ai trong số chúng ta cũng từng yêu, từng cần tình yêu, từng hạnh phúc hay đau khổ vì yêu và có thể thấy thấp thoáng bóng mình qua một vài câu thơ của Diễm Thuyên trong tập thơ này.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm