TIN TỨC

Mặc khải của nước, lửa &…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-16 18:37:30
mail facebook google pos stwis
399 lượt xem

Văn chương TP. Hồ Chí Minh: Nhà khoa học, nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh luôn có những vần thơ hừng hực sống, đầy ám ảnh. Với bài phê bình "MẶC KHẢI CỦA NƯỚC, LỬA &…", nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế đã mở ra một lăng kính độc đáo, soi chiếu sâu vào nội hàm triết lý, cấu trúc thi ảnh và hành trình tư tưởng của thơ Nguyễn Đức Hạnh qua cặp phạm trù đối lập mà thống nhất: Nước và Lửa. Đây không chỉ là một bài luận về thơ mà còn là một hành trình chiêm nghiệm về thân phận, về những khát khao cháy bỏng và sự chuyển hóa diệu kỳ trong từng con chữ, mời quý độc giả cùng khám phá.
 

NGUYỄN THAM THIỆN KẾ

Tôi là ống cơm lam nướng vụng / Cháy đen rồi còn cố bùi thơm …

Vâng thưa, câu thơ nhuốm sắc tự ngộ của văn nhân Nguyễn Đức Hạnh ngỡ là khiêm nhưng tôi lại thấy đủ sự ngạo, dư tự tin, biết mình từ đâu, mình là ai, mình đang nào và sẽ như thế nào.

Tất nhiên nếu như thuận lòng Thượng đế.

Bởi khiêm tận sẽ đạt tới ngạo tận của hợp dung lửa nước.


PGS-TS, nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh - Đại học Thái Nguyên.

Đại diện cho 95 bài thơ tên KHÁT CHÁY sự hàm ngôn trong thi ảnh cần chúng ta cảm nhiều hơn là phẫu tích như xác phàm, huống là tinh huyết của một tâm thế đa truân, đa sự. Dù ở thể nào thì Nguyễn Đức Hạnh luôn hiển sáng yếu tố Lửa ở suy tư và hành xử mềm của chuyển hoán Nước trong dòng chảy đời sống, ngỡ kỵ khắc mà lại toàn hợp khi thi sĩ phổ phóng mình vô ưu vào vũ trụ nghệ thuật thi ca.

Nguyễn Đức Hạnh-một cái tên của kỳ vọng và khẳng định, nổi tiếng trên mạng, dễ lẫn Hạnh này với Hạnh kia, nhưng một khi đã đọc, đã đụng trong câu chuyện với PGS Tiến sĩ Nguyễn Đức Hạnh thì ta bị ngợp cuốn theo phún xuất dung nham của hỏa diệm sơn ngộn chất sống cần lao, chức phận công chức, miên man thơ văn tầm chương hàn lâm lẫn dân gian.

Và hơn nhất, đấy là zích zắc nồng hậu lấp lánh nỗi bạn, nghiệp nghề lao tác. Điếu thuốc tàn đêm rít tóp. Hào sảng cú vung, khoát, diễn nhịp mở tay mời cả thế giới, với hệ ngôn từ khúc triết, cộng minh chữ sáng, âm sang. Rồi chợt buột rơi vào thế giới tự kỷ hí hoáy bấm điện thoại. Sau năm mười phút tốc ký xong bài thơ, chỉnh một tus mà đọc chói lên những chữ những câu gia tăng năng lượng, chiều kích đối sánh khiến ta không thể không ngẩng lên nhìn người văn một cái.

Hiện văn đàn Việt đội ngũ nghiên cứu và dạy văn chương chốn thâm nghiêm giảng đường, thời kiêm sáng tác, dịch thuật khá hiếm. Tôi có thể kể: Phạm Quang Long, Trương Đăng Dung, Nhật Chiêu, Huỳnh Như Phương, Văn Giá, Nguyễn Đức Hạnh, Đinh Tiến Dũng… và Chu Văn Sơn, Phạm Quốc Ca đã rời văn cuộc. Với Nguyễn Đức Hạnh làm thầy và cũng là đối tượng để các nghiên cứu sinh thực hiện luận án về các sáng tác của mình.

Ngẫu nhiên ông tự khẳng định mình bằng một chuẩn kép.

Luận văn tiến sĩ: "Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965-1975 nhìn từ góc độ thể loại" sau nối thêm công trình: "Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai” và “Văn học địa phương miền núi phía Bắc". Hướng dẫn sinh viên làm luận văn tiến sĩ, thạc sĩ con số hàng chục. Ngỡ Nguyễn Đức Hạnh yên vị học thuật tháp ngà, nhưng mấy ai hay bên trong bệ vệ giáo sư kia là con ngựa chứng hoan cuồng với dặm ngàn xanh cỏ, cát bụi trường miên, là chú bé ngỗ nghịch tổn thương chỉ biết khóc nức dưới sao trời, sớm tròn vai anh lớn trước người cha khắc kỷ, là người thầy làm cha sấp sỉ tuổi sinh viên thuở bao cấp ngặt khó, vợ yếu con dại, bất chấp sĩ diện, bán trà chén, chụp ảnh dạo, xe ôm, moi than thổ phỉ, phu vàng và bưởng trưởng đã chạm tay giàu sang bỗng trắng tay sau một đêm.

Đa thân phận xung đột sau áo thụng chùm, dưới mũ hình thoi rủ tua vàng ngất nghểu thì làm sao chức phận nghệ sĩ của Nguyễn Đức Hạnh lại ngậm lưỡi trói tay mình nếu như không cất lời, nếu không vắt kiệt khí huyết gieo chữ nên thi thư. Khổng tước phải múa, bách thanh phải hót, đại bàng căng cánh lộng trời tự do, hoa quỳnh se sẽ nở đêm, hoa sen thắp sắc thả hương ngát đồng…

Từ 2000 đến 2022 riêng với thơ Nguyễn Đức Hạnh in 4 tập: "Núi khát"- Nxb Hội Nhà văn-năm 2000; "Vết thời gian"- Sở Văn hóa Thể thao Thái Nguyên, năm 2014; "Khoảng lặng"- Nxb Đại học Thái Nguyên-năm 2016 và "Thầm"- Nxb Hội Nhà văn-năm 2020. Và năm 2022, vị giáo sư trình bạn đọc tập truyện ngắn “Tiếng chuông chùa Tử Đằng”, sách do Nxb Hội Nhà văn ấn hành.

Một tập sách nội dung đan chen hiện thực và liêu trai, phóng chiếu từ những mảnh cắt mỗi gấp khúc đời sống thực của tác giả và nghiệm sinh văn hóa, hiện thực mà huyền ảo, huyền ảo mà hiện thực, trình hiện trong trường văn sôi trào năng lượng, khiến người đọc cứ phải gồng lên mới theo kịp diễn tiến cảm xúc. Một cách thức lấy thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính - xúc cảm của chủ thể để làm nên những thiên truyện ngắn của trường phái biểu hiện.

Và bây giờ chúng ta cầm trên tay tập thơ thứ năm KHÁT CHÁY.

Hệ sinh thái KHÁT CHÁY về lượng có 96 bài thì đã có đến gần ba mươi đề tặng người thân, bạn văn chương và viết trực tiếp về các bậc văn nhân tài danh mà tâm thức ông trọng cảm như: Vũ Trọng Phụng, Văn Cao, Quang Dũng, Lâm Thị Mỹ Dạ.

…Có chị, sông Hương trong hơn, mưa Huế đẹp hơn

Chị đi vắng sen trắng chắp tay niệm Phật…

…Cầm thơ ra sông giặt phơi

Thơ hoá thành lụa trắng

Thắt nơ một bó thở dài…

…Thị trấn bằng hai bàn tay đếm mấy vốc nhân tài ?!

Anh Y Phương tựa lưng vào non nước

Ngắm sơn thuỷ mênh mông gieo một chữ Hoà…

Bản thân cũng được Nguyễn Đức Hạnh đề tặng thơ, với người khác thì có thể, nhưng tôi nghi ngờ mình khó có thể trở nguồn cảm hứng của bất cứ ai. Nên chăng, chỉ là chút xíu xúc tác. Tập hợp gần ba mươi bài thơ, mang đề tặng, chắc cũng tương tự ngọn ngưu bàng mảnh mai gẫy trong bão tuyết tạo cú huých cho Nikolay Vasilyevich Gogol viết Những linh hồn chết. Và để chúng ta thấy Nguyễn Đức Hạnh lụy tình như thế nào. Hơn nữa cũng thêm vai trò chia sẻ ý tưởng và kích ứng không gian thơ Nguyễn Đức Hạnh bùng phát biên độ.

Phần còn lại là những bài sinh diễn, cấu tứ từ đột biến mang tính ngẫu cảm của tác giả trước mỗi tọa độ quen thuộc của vùng địa văn hóa-địa lịch sử Việt Bắc, và quanh quanh Thăng Long. Bài thơ ghi dấu xê dịch của tác giả xa nhất về phía Nam là Phú Yên.

KHÁT CHÁY bị chi phối bởi hai yếu tố: Lửa-Nước.

…Nửa cho hồ bài ca mang tên Khát

Có nóng mặt trời? Có lạnh mặt trăng?...

…Bông hoa chuối rừng vừa cháy, vừa trôi…

…Sông co ro. Người xuýt xoa. Lửa hồng thương kêu lép bép

Phố đêm nghiêng thõng tiếng đàn bầu

Ao chuôm thở làn khói ấm

Cá lỡ hẹn hò nên lặn rất sâu….

…Yêu như là lửa đỏ

Thương như là than hồng

Thơ như là củi nỏ

Cháy rồi tan âm thầm …

Yếu tố nước-thủy hầu như xuất hiện đều đặn trong từng bài. Những từ khóa: Mưa. Sương. Mưa rào. Mưa phùn. Mưa sương. Sóng. Bến. Nước mắt. Lệ. Giọt buồn. Giọt vui. Nước trong. Dòng đục. Dòng hồng…

…Mưa trong veo ứa hai giọt thật trầm…

…Buồn thì ra bến

Thả mình trôi khoả đục tìm trong…

…Bến sông trong phưng phức

Bắp chân con gái thơm hồng…

…Sương muối bay mặn giấc chiêm bao…

…Hồn phố cổ như bình rượu quý hạ thổ mấy trăm năm

Xin đừng cho thêm ngũ xà lục xà vào nữa….

…Va vào mưa thủy tinh - mưa vỡ…

…Mật ngôn của cánh cò cõng mưa đá đến giấc mơ...

…Bầy lá khô tấp tểnh giỡn sương…

…Lệ đã chảy thành sông tiếng gọi…

Thơ là loài cây uống nước mắt mà xanh…

…Sương Lương Sơn tan không dỗ nổi…

…Sông Đà ôm em và anh kệ vầng trăng khuyết

Đập uống say nằm khóc một mình

Vạn con sóng vọt lưng trời tan vỡ

Con sóng nào cũng dáng lưng ong…

…Sông Cầu thức đòi uống ban mai cùng mắt biếc...

…Ai cùng tôi ngậm mưa

Em kéo nón che một mùa sen nở

Thở thật buồn sen bay trắng ngàn mây…

Yếu tố lửa-hỏa chính là giọng điệu hực ngụt thăng hoa. Đã bùng thì cháy đến kiệt. Cháy hết nguồn cảm xúc thì tự dừng. May rủi tùy thuộc vào nguồn cung năng lượng là phân ra hạt nhân, dầu sáng, xăng, than đá, củi, phong điện, quang điện.

…Thành thi nhân

Lửa hồng đố gì? Bối rối củi khô…

…Người đổ đèo vẫn phẻn dao lấp loáng

Mỗi bước chân rung nghịch một mặt trời…

…Lấy tóc bạc mà buộc

Sợi nắng vàng hân hoan…

…Anh là củi còn em là lửa

Đêm đêm che gió nhóm yêu thương

Có than hồng bùng trong vất vả

Khoai nướng cứ thơm…

…Thiêu nửa chừng núi đá rưng rưng

Người như đá tay cầm tay thành lửa…

…Ngòi bút tự khêu vào tiếng gọi thầm trong mắt

Chảy ròng ròng qua mấy mùa sen

Về cấu trúc, thì một số bài thơ có sơ đồ hình thang ngược, như một bông pháo hoa, bung sắc mình hết cỡ ngay từ giây phút khởi đầu rồi từ từ thu nhỏ mình đến kết thúc. Mở đầu bằng những câu thơ nối liền hàng như văn xuôi, liền cả một khổ. Cấu trúc này phản ánh đúng với trình cảm xúc khi đạt tới ngưỡng bùng nổ thì ngôn từ hay các mảnh vỡ của vụ nổ văng tóe cần một không gian lớn hơn kích cỡ truyền thống. Như là một cách chiếm lĩnh người đọc, tức thì. Đây thực sự là một điểm cộng, một đóng góp cho cấu trúc thơ đương đại hay chăng?

NHỚ VINH

Lửa đỏ trong nước lạnh. Tuyết trắng gói đa tình

Giấu thép trong lụa bạch. Lấy bão làm dây buộc tóc xinh

Cửa Hội nghiêng chiều đổ sóng vào anh

Mai xa rồi cắn sông lâu chút nữa …

 

ĐÊM CO SẦU

Hồn nhiên và trầm mặc. Nghìn tuổi hay không tuổi?

Gió ôm nhau sóng sánh thành đèo…

Phác thảo miền trung

Miền Trung - khớp nối hai thanh tà vẹt rung bần bật hành trình Bắc - Nam

Ngựa thồ phù sa sông Hồng nguồn cội

Rơi ngọt lành đẫm phá Tam Giang…

Tiếng trống chèo, quan họ, chầu văn…

Những loài nói thầm thường đau sâu

Sông nói bằng sóng. Ngôn từ vừa vỡ vừa trôi

Rừng nói bằng gió. Lá vừa thảng thốt vừa rơi

Trên quả đất này

Loài nói thầm đau sâu?

Loài nói to quên mau?

Tài năng và lòng trắc ẩn chắp đôi cánh đại bàng cho ngựa trắng Pegasus như muôn người thơ đúng nghĩa, Nguyễn Đức Hạnh bật thốt những câu thơ về mẹ, về em, về thân phận ngoài kia không tròn, nhẹ như không mà trĩu nặng.

 

MẸ ƠI, CON NHÓM LỬA RỒI

Sưởi cho bao mùa đông lăn thành giọt lệ…

… Xưa con nghịch, cha đánh, mẹ che

Không bao giờ khóc

Sáng mai đếm vết hằn lưng mẹ…

…Em là muối ớt

Tôi chấm tôi vào cùng trăm năm

Ngon cũng khóc mà đắng cay cũng khóc…

… Bác bán dao mài nỗi buồn ế khách

Tuổi tác trôi qua mặt đá mài

May còn đuôi mắt sắc

Mài ngực chị bán xôi...

…Gương mặt em buồn như trăng muộn

Cầm rổ cá ngồi vừa muốn rán vừa thương…

…Ô cửa cũ níu nụ cười ngày ấy

Mỗi bông phượng hồng cất giấu một đôi môi

Tóc con gái thành cầu vồng đen cong về hồi ức

Ai gọi ai mưa trắng xóa lối về…

…Em lấy chồng rồi hay khóc

Mang củ mài đi nhận củ nâu về

Sông đổi dòng ở chỗ ném bùa mê…

…Em thành sương khói

Về ôm sông đong chiều…

…Mưa suốt đêm không ướt nổi tiếng chim

Mổ thật khẽ vào thương nhớ…

…Em vẫn như sao mai ngơ ngác

Mới khẽ cười lệ đã vỡ làm đôi

KHÁT CHÁY- lật trang nào cũng gặp câu chữ phê choáng, thán phục cho sự thăng hoa của chuỗi ngôn từ giao hoan trong trường liên tưởng. Dư thời gian và kiên trì cho dẫn trích những câu thơ hay, nhưng tôi e, nếu dẫn hết ra đây sẽ là sự bất nhã với bạn đọc.

Chốt, xin trở lại với tự vấn của tác giả về thân phận và trách nhiệm nghệ sĩ.

…Anh nắng lửa gió Lào gặp em cát trắng

Có một ngày cát trắng hoá pha lê…

…trong một quả dừa khô

Còn một câu thơ cũ…

…Một đời rượu mặn không?!

Trong từng vết gỉ gãy…

…Người dưới biển tính chuyện lên rừng

Người trên núi mơ về sóng bể

Đi tìm cái mới cả đời đã thấy chưa?

Mặt nhà văn nhàu nát ngắm mặt nhà thơ

Mặt nhà thơ lơ ngơ ngắm mặt nhà phê bình nom như mặt sĩ quan cảnh vệ

…Trong ổ rơm nhìn trăng gầy quá

Giống quả ổi cuối cùng trên cây mùa đông

… Vách đất nứt ma về lay cửa mục ..

Con chó buồn cắn tiếng rõ, tiếng câm…

…Pha ấm trà rót xuống đá rưng rưng

Ta bắt gặp nồng ngột Trần Mạnh Hảo, cảm xúc mượt đau Hồng Thanh Quang, ngỡ rằng thơ đến vô không và cách xây dựng thi ảnh bội nghĩa, đa thanh của Nguyễn Quang Thiều, nhưng biệt sắc Nguyễn Đức Hạnh bồng sôi, ào chảy.

Trời phú khả năng ứng tác nhanh, dẫn đến cảnh huống chẳng phải lúc nào cảm xúc ngôn từ cũng song hành với lí trí văn hóa, nên không nhiều lắm những bài trọn vẹn, thỏa mãn. Đọc xong vẫn ấm ức, thiếu hụt vì vừa dứt ra khỏi cơn thăng trào, ta vẫn tiếp đợi bùng nổ. Trong dịch chuyển, sự khiếm này lại là nét duyên thơ Nguyễn Đức Hạnh?

Hỡi ôi, đúng thôi, ngẫm trước tác của các thi bá đông tây kim cổ, có bao nhiêu tác phẩm toàn bích. Dường như bao nhiêu kiến văn, vốn sống phong nhiêu bày sẵn, văn nhân hào sảng tiêu sạch vào CHÁY KHÁT.

Mạo định, KHÁT CHÁY là tác phẩm quan trọng nhất hiện nay trong vận trình sáng tạo của Nguyễn Đức Hạnh - văn nhân “bảo học” xứ ngàn Việt Bắc đỉnh độ sung chiếu văn mặt báo. Tôi trội bật cảm giác rằng, trước mỗi cấu tứ thi ảnh ập đến, Nguyễn Đức Hạnh vứt hết kiến thức nghiên cứu thơ ca bấy lâu, từng ngày vẫn truyền dạy sinh viên xuống Bến Tượng, chỉ một sục sôi triết máu hòa rượu để làm chữ, như viết bài thơ cuối cùng.

CHÁY KHÁT- tập thơ có đóng góp quan trọng về cấu trúc ở một số bài, cũng như nghệ thuật ngôn từ trong trường đối sánh thi ảnh được phóng chiếu làm mới, vượt qua cái xơ sáo bởi hụt nghiệm sống, hụt cảm xúc tràn lan các tập thơ hiện hành. KHÁT CHÁY dễ chinh phục số nhiều vì mới lạ cảm xúc, nhưng để thấu CHÁY KHÁT thì lại không nhiều. Nếu bạn là một người sáng tác, hay nghiên cứu văn học, thì cần phải đặt nó ngay ngắn lên bàn, vịn vào phép đọc lý tính hay suy cảm đây? KHÁT CHÁY đã định vị thế biệt sắc, không chỉ riêng cõi thơ Việt Bắc mà cả ở nền tảng thi ca Việt hiện tại.

…Ta nửa dại nửa khôn

Thơ vừa hay vừa dở…

…Nếu đời như mình muốn

Thì trời đâu bão mưa?!

Văn nhân Nguyễn Đức Hạnh cũng như muôn bao người Việt yêu thơ bị “giời đày làm thơ” đã giận hờn thơ, tức tưởi trước thơ. Nhưng nếu không có thơ người Việt sẽ ra sao nhỉ? Nguyễn Đức Hạnh sẽ thế nào, nếu thơ quay lưng với ông? Ông bỏ lửng thơ? Mới sơ hình dung, tôi đã giật mình. Biết CHÁY KHÁT rồi tôi mới hiểu mình sẽ nhạt nhèo đi nhiều lắm nếu như không gặp CHÁY KHÁT.

Đã buông bỏ lá rầu rầu

Để vòm cây ngát một màu bình an

Còn vương một lá ngỡ ngàng

Vừa khô vừa ướt bởi ngàn câu thơ.
 

Việt Trì. 3.9.2024,
N.T.T.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm