TIN TỨC

Bước đầu tìm hiểu 50 năm thơ Bình Định (1975-2025)

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-05 07:09:52
mail facebook google pos stwis
116 lượt xem

Bình Định – nơi không chỉ nổi tiếng với truyền thống thượng võ, mà còn là mảnh đất đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa. Trong bài viết công phu dưới đây, nhà thơ Lê Bá Duy đưa bạn đọc ngược dòng thơ ca Bình Định suốt 50 năm (1975–2025), từ những vần thơ sử thi hậu chiến đến các thể nghiệm hiện đại, đầy cá tính của lớp trẻ. Một bản tổng kết dung dị mà sâu sắc, chan chứa niềm tự hào xứ sở – đáng đọc và đáng lưu giữ.

Văn chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu cùng độc giả, như một cách hiểu thêm về vùng “đất võ – đất thơ” này, nhất là trong bối cảnh Bình Định vừa được sáp nhập với Gia Lai để hình thành một đơn vị hành chính mới.
 

LÊ BÁ DUY

Thơ ca, với tư cách là một trong những loại hình nghệ thuật tinh túy nhất, luôn là tấm gương phản chiếu sâu sắc những biến động của đời sống xã hội và những rung cảm nội tâm của con người. Trong dòng chảy sôi động của văn học Việt Nam đương đại, thơ ca Bình Định mang một sắc thái riêng biệt, vừa kế thừa mạch nguồn truyền thống, vừa không ngừng đổi mới để bắt nhịp với hơi thở thời đại. Giai đoạn 50 năm (1975-2025) đặc biệt có ý nghĩa, đánh dấu chặng đường phát triển của thơ Bình Định trong bối cảnh hòa bình, thống nhất, đổi mới và hội nhập sâu rộng. Việc nghiên cứu giai đoạn này không chỉ giúp ta nhìn lại những thành tựu, đặc trưng, mà còn nhận diện những thách thức và triển vọng của thơ Bình Định, từ đó khẳng định vị trí và đóng góp của nó vào nền văn học nước nhà.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), Bình Định nói riêng và cả nước nói chung bước vào giai đoạn tái thiết và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bối cảnh hậu chiến tranh với những vết thương còn đó, cùng với cơ chế kinh tế bao cấp, đã tác động không nhỏ đến đời sống văn học nghệ thuật. Thơ Bình Định giai đoạn này vẫn tiếp nối cảm hứng hùng ca, ngợi ca quê hương, đất nước thống nhất, nhưng đã bắt đầu xuất hiện những trăn trở về hậu quả chiến tranh, về cuộc sống đời thường với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Các nhà thơ bắt đầu tìm kiếm những đề tài gần gũi hơn, thể hiện tình cảm cá nhân, gia đình bên cạnh những vấn đề lớn lao của dân tộc. Dù vậy, nhìn chung, tư duy sáng tác vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của văn học cách mạng, nhưng đã manh nha những tìm tòi mới về phong cách và hình thức.

Công cuộc đổi mới khởi xướng từ năm 1986 đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật. Thơ Bình Định cũng hòa mình vào dòng chảy ấy, chứng kiến sự mở rộng đáng kể về chủ đề và sự đa dạng hóa trong phong cách biểu đạt. Các nhà thơ không còn bị giới hạn bởi những khuôn mẫu cũ, mạnh dạn khám phá chiều sâu nội tâm con người, những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển, hay những mảng khuất của lịch sử. Hình thức thơ cũng trở nên linh hoạt hơn, với nhiều thử nghiệm về nhịp điệu, cách gieo vần, và cấu trúc câu thơ. Đây là giai đoạn nhiều tác giả khẳng định được phong cách riêng, mang đến những tiếng nói độc đáo, giàu tính chiêm nghiệm và suy tư.

Thế kỷ 21 mở ra với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa sâu rộng. Bình Định, cùng với cả nước, chứng kiến những thay đổi mạnh mẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa. Thơ ca Bình Định trong giai đoạn này thể hiện rõ sự đa dạng hóa mạnh mẽ về thể loại, phong cách, từ thơ tự do, thơ vắt dòng, đến những thể nghiệm với các hình thức thơ quốc tế như Haiku, hay sự cách tân trong thơ lục bát truyền thống. Sự bùng nổ của internet và mạng xã hội cũng tạo điều kiện cho các nhà thơ trẻ tiếp cận công chúng rộng rãi hơn, hình thành các cộng đồng thơ ca trực tuyến, và thử nghiệm những cách thể hiện mới mẻ, đôi khi táo bạo. Các vấn đề toàn cầu như môi trường, biến đổi khí hậu, hay những vấn đề mang tính triết lý về thân phận con người trong xã đại phức tạp, cũng được các cây bút trẻ Bình Định quan tâm khai thác.

Trong 50 năm qua, thơ Bình Định vẫn luôn giữ vững mạch nguồn cảm hứng về tình yêu quê hương, đất nước, và con người Bình Định. Những hình ảnh quen thuộc như biển Quy Nhơn, núi Vọng Phu, tháp Chăm cổ kính, hay tinh thần thượng võ của đất Bình Định, vẫn là nguồn cảm hứng bất tận. Tuy nhiên, cách thể hiện đã trở nên đa chiều và sâu sắc hơn. Từ những bài thơ ngợi ca hùng tráng, đã chuyển sang những góc nhìn trữ tình, chiêm nghiệm về vẻ đẹp thiên nhiên, sự cần cù, kiên cường của người dân. Bên cạnh đó, các chủ đề về thân phận con người cá nhân, những trăn trở trước cuộc sống hiện đại, sự cô đơn, khát vọng, hay cả những vấn đề xã hội đương đại cũng được khai thác một cách tinh tế và đa diện hơn.

Giai đoạn 1975-2025 chứng kiến một quá trình chuyển mình rõ rệt trong phong cách và hình thức thơ Bình Định. Nếu những năm đầu sau giải phóng, phong cách thơ còn mang dấu ấn của sự hùng tráng, bay bổng, thì càng về sau, thơ Bình Định càng trở nên gần gũi, đời thường, giàu tính tự sự và suy tưởng. Ngôn ngữ thơ có sự chắt lọc, tinh tế, và đôi khi táo bạo trong việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ. Về hình thức, bên cạnh những thể thơ truyền thống như lục bát, song thất lục bát, các nhà thơ Bình Định đã mạnh dạn thử nghiệm thơ tự do, thơ văn xuôi, hay những cách ngắt dòng, xuống câu phá cách, tạo nên sự phong phú và đa dạng cho thơ Bình Định.

Trong giai đoạn này, thơ Bình Định có sự góp mặt của nhiều thế hệ nhà thơ nổi tiếng như (Xuân Diệu, Yến Lan, Quách Tấn, Phạm Hổ, Lệ Thu, Nguyễn Văn Chương, Lê Văn Ngăn,…), Đó là những nhà thơ gạo cội tiếp tục sáng tác và đạt đến độ chín trong nghề tạo nên một bức tranh đa sắc, những người đã có những đóng góp quan trọng trong thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thái Dương, Hồ Thế Phất, Hồ Thế Hà, Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang, Văn Trọng Hùng, Hà Giao, Lâm Huy Nhuận, Mai Thìn, Tạ Văn Sỹ, Triều La Vỹ, Bùi Thị Xuân Mai, Từ Quốc Hoài,… Và lớp nhà thơ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI có Lê Văn Hiếu, Hương Đình, Tạ Văn Sỹ, Lê Ân, Đào Viết Bửu, Trần Viết Dũng, Đào Quý Thạnh, Nguyễn Thường Kham, Trần Quang Khanh, Khổng Vĩnh Nguyên, Đặng Quốc Khánh, Phạm Văn Phương, Phạm Ánh,  Lê Bá Duy, Trần Như Luận, Nguyễn Thị Phụng, Lê Trọng Nghĩa, Vĩnh Tuy, Ngô Văn Cư, Nam Thi, Nguyễn Thanh Xuân, Võ Ngọc Thọ, Hà Diệp Thu, Lý Thành Long, Minh Đan, Trần Hà Nam, Miên Linh, Duy Phạm, Khổng Vĩnh An Vi, Nguyễn Như Tuấn, Lê Vinh, Nguyễn Đức Quận… Đặc biệt là sự xuất hiện của một thế hệ nhà thơ trẻ năng động, với nhiều cây bút đầy triển vọng: Trần Quốc Toàn, Vân Phi, Trương Công Tưởng, Duyên An, Viễn Trình, My Tiên, Trần Văn Thiên… Mỗi tác giả mang một dấu ấn riêng, đóng góp vào sự phong phú của thơ Bình Định, từ những vần thơ trữ tình sâu lắng đến những thể nghiệm táo bạo trong ngôn ngữ và hình thức. Các tác phẩm của họ không chỉ được biết đến trong tỉnh mà còn có sức lan tỏa ra toàn quốc, khẳng định tài năng và sức sống của thơ Bình Định.

Chặng đường 50 năm thơ Bình Định (1975-2025) là bức tranh đa sắc được dệt nên từ tài năng và tâm huyết của nhiều thế hệ nhà thơ. Mỗi thế hệ mang theo sứ mệnh lịch sử và cảm quan thời đại riêng, góp phần định hình diện mạo và chiều sâu cho thơ ca xứ Nẫu.

Giai đoạn này chứng kiến sự tiếp nối của những cây bút đã trưởng thành từ thời kỳ kháng chiến, đồng thời cũng là sự chuyển mình trong cảm hứng sáng tác. Thơ ca Bình Định thời kỳ này vẫn mang nặng âm hưởng của một dân tộc vừa bước ra từ chiến tranh, với nỗi đau, sự mất mát nhưng cũng tràn đầy niềm tin vào tương lai thống nhất, xây dựng đất nước. Với đặc điểm chung: Thơ mang tính sử thi, ngợi ca quê hương, đất nước trong hòa bình; đồng thời bắt đầu xuất hiện những lắng đọng, chiêm nghiệm về cuộc sống đời thường, thân phận con người hậu chiến. Ngôn ngữ thơ thường trang trọng, mang tính biểu tượng.

Trong chặng đường 50 năm thơ Bình Định (1975-2025), diện mạo thơ ca xứ Nẫu được định hình và làm giàu bởi tài năng của nhiều thế hệ nhà thơ sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, hoặc có gắn bó sâu sắc với Bình Định, với những đóng góp không ngừng nghỉ qua từng giai đoạn lịch sử. Giai đoạn này là sự tiếp nối của những thế hệ thơ đã có nền tảng từ trước, đồng thời cũng là sự chuyển mình trong bối cảnh đất nước thống nhất và bắt đầu công cuộc Đổi mới. Các tác giả trong giai đoạn này đã ghi dấu ấn với những vần thơ vừa mang hơi hướng sử thi hậu chiến, vừa dần mở rộng sang những chiêm nghiệm đời thường, gần gũi. Thơ mang hơi thở của một Bình Định vừa bước ra từ chiến tranh, với niềm tin xây dựng quê hương nhưng cũng thấm đẫm những suy tư về cuộc sống mới. Ngôn ngữ thơ có sự dịch chuyển từ trang trọng sang gần gũi, biểu cảm hơn.

Yến Lan và Quách Tấn là hai thi sĩ nổi tiếng của "Trường thơ Loạn" (Bình Định) trước 1945. Sau 1975, dù tuổi cao, họ vẫn tiếp tục sáng tác. Thơ của họ giai đoạn này có thể không còn sôi nổi như thời trẻ, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp cổ điển, thiền vị và thường thể hiện sự gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người Bình Định bằng một giọng điệu trầm tư, hoài niệm. Yến Lan -thi sĩ tài hoa của "Trường thơ Loạn", có đóng góp lớn nhất của ông ở giai đoạn trước 1975, được trao tặng Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Thơ ông giai đoạn này, vẫn giữ được vẻ đẹp cổ điển, lãng mạn, thấm đẫm chất huyền thoại, thường thể hiện sự gắn bó sâu sắc với những giá trị văn hóa, lịch sử và thiên nhiên của Bình Định bằng một giọng điệu trầm tư, hoài niệm.

Phạm Hổ là nhà thơ nổi tiếng với thơ thiếu nhi, nhưng Phạm Hổ là người con của An Nhơn, Bình Định. Thơ ông sau 1975, bên cạnh mảng thiếu nhi, vẫn có những bài viết về quê hương, về những ký ức và tình cảm sâu nặng với mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Một trong những bài thơ thiếu nhi kinh điển của ông mà tôi còn nhớ mấy câu, được sáng tác năm 1952 nhưng vẫn giữ nguyên sức sống qua nhiều thế hệ, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ trong việc nắm bắt tâm lý và thế giới quan của trẻ thơ, cùng tình yêu thương đối với loài vật và thiên nhiên: “Mặt trời rúc bụi tre/ Buổi chiều về nghe mát/ Gió từ tay mẹ quạt/ Thơm sữa mẹ về theo”. Bài thơ mở ra một khung cảnh chiều quê bình yên, dịu mát với hình ảnh thân thương "gió từ tay mẹ quạt". Cách Phạm Hổ nhân hóa chú bò đi tìm bạn, trải qua những cảm xúc ngộ nghĩnh, đã làm cho bài thơ trở nên sống động và đáng yêu. Nó không chỉ là câu chuyện mà còn là bài học về tình bạn, sự quan tâm đến mọi vật xung quanh, được kể bằng giọng thủ thỉ, trong sáng, dễ đi vào lòng trẻ thơ.

Lệ Thu là nhà thơ nhà báo xuất hiện trước 1975. Thơ Lệ Thu thường điềm đạm, sâu sắc, giàu chiêm nghiệm về đời sống, tình yêu và những giá trị nhân văn. Bà có khả năng diễn đạt những cảm xúc tinh tế, suy tư sâu xa bằng ngôn ngữ giản dị nhưng đầy ám ảnh. Tôi thích những câu thơ: "Củi đã cháy cho đời ngọn lửa. Phận mình đen nhẻm hòn than. Than lại cháy cho đời hơi ấm…". Những câu thơ này thể hiện trách nhiệm công dân và tinh thần cống hiến thầm lặng của Lệ Thu, một người từng là nữ nhà báo chiến trường. Dù tóc đã bạc, nhưng niềm vui chiến thắng, niềm tin vào đất nước vẫn rạng rỡ. Hình ảnh "củi đã cháy cho đời ngọn lửa" rồi "thành hòn than lại cháy cho đời hơi ấm" là một ẩn dụ tuyệt đẹp cho sự hy sinh, cống hiến không ngừng nghỉ, luôn khiêm nhường. Thơ Lệ Thu, với ngôn ngữ bình dị, mộc mạc nhưng giàu suy tưởng và cảm xúc, đã để lại dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc. Bà không ngừng khám phá những cung bậc tình cảm của con người, những vấn đề của xã hội, và luôn giữ một cái nhìn nhân ái, vị tha. Đó chính là những giá trị làm nên sức sống bền bỉ cho thơ Lệ Thu trong dòng chảy văn học Bình Định và Việt Nam.

Thơ Bùi Thị Xuân Mai nhẹ nhàng, mộc mạc, bộc lộ tình yêu của mình với quê hương đất nước. Thơ chị đi vào những đề tài từ hiện thực của đời thường, thể hiện lòng nhân ái với con người và cuộc sống.

Thơ Nguyễn Văn Chương giản dị, thường mang hơi thở của cuộc sống đương đại, với những vần thơ gần gũi, đời thường nhưng cũng đầy suy tư. Thành công của nhà thơ ở mảng thơ thiếu nhi cuốn hút khá nhiều bạn đọc nhỏ tuổi.

Lê Văn Ngăn là một cây bút đã có nhiều đóng góp cho văn học Bình Định. Ông thành công với thể thơ văn xuôi. Thơ ông giản dị, chân chất, nhưng giàu triết lý, đi sâu khai thác vẻ đẹp của cuộc sống lao động, tình yêu quê hương, con người Bình Định với một giọng điệu mộc mạc, thấm đẫm tình cảm. "Sóng vẫn đập vào eo biển" là một trong những bài thơ hay, làm nên tên tuổi của Lê Văn Ngăn. Bài thơ được viết vào năm 1972, khi chiến tranh đang diễn ra ác liệt, mang trong mình cả nỗi đau, sự trăn trở nhưng đồng thời cũng là niềm tin mãnh liệt vào quê hương và tương lai.

Thế hệ đổi mới và hội nhập (từ cuối thập niên 1990-2025) đã mạnh dạn hơn trong việc thử nghiệm, tìm tòi những cách thể hiện mới mẻ, khai thác các chủ đề đa dạng hơn, từ những vấn đề xã hội phức tạp đến những rung cảm cá nhân tinh tế. Họ tiếp cận với những luồng tư tưởng mới, góp phần đưa thơ Bình Định hòa nhập vào dòng chảy văn học hiện đại của cả nước. Chủ đề mở rộng, không ngại khai thác những mảng khuất của đời sống, chiều sâu tâm lý con người. Hình thức thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ vắt dòng được ưa chuộng. Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu cảm, ẩn dụ, đôi khi có phần gai góc, táo bạo. Sự xuất hiện của các diễn đàn, mạng xã hội cũng tạo điều kiện cho các tác giả trẻ thể hiện và giao lưu.

Nguyễn Thanh Mừng là một cây bút tiêu biểu ở xứ sở mệnh danh “Đất võ trời văn”. Thơ Nguyễn Thanh Mừng thường không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hay biểu cảm thuần túy mà đi sâu vào việc đặt ra những câu hỏi, những chiêm nghiệm về cuộc sống, lịch sử, văn hóa. Ông thường dùng những hình ảnh, sự kiện quen thuộc để khái quát lên những triết lý sâu sắc, mang tính nhân văn. Tôi thích những câu trong bài Những vòng xe đạp: Vợ chồng con cái trên xe/…/Bon bon xe đạp cà tàng/ Vợ chồng con cái dọc ngang đất trời/ Băng qua thế kỷ hai mươi/ Cười ngờm ngợp mắt, thở sùi sụt tai… Với những câu lục bát ngắn gọn, Nguyễn Thanh Mừng đã phác họa một bức tranh gia đình nhỏ bé, giản dị trên chiếc xe đạp "cà tàng" nhưng lại "dọc ngang đất trời". Cái "cà tàng" đối lập với "dọc ngang đất trời" tạo nên tiếng cười tự trào, một cái nhìn hóm hỉnh về hoàn cảnh. Dù cuộc sống có thể còn nghèo khó, thiếu thốn (biểu tượng bằng chiếc xe cũ kỹ), nhưng gia đình vẫn tràn đầy sự gắn kết, niềm vui và tinh thần vượt lên cảnh ngộ...

Thơ Ngô Văn Cư thường mang đậm chất suy tưởng, triết lý về cuộc đời, về những vấn đề của xã hội trong thời kỳ chuyển mình. Ông thường sử dụng những hình ảnh gần gũi nhưng lại chứa đựng chiều sâu tư tưởng.

Mai Thìn có thể nói là một “nhà thơ của đồng quê” tiêu biểu, nặng lòng với mảnh đất Bình Định, thơ của anh nhiều hình ảnh quê hương, nông thôn, chiến tranh- hậu chiến, đầy suy tưởng và mộc mạc. “Đồng quê”, “Tiếng chim về cũ”, “Tiếng gọi của thiên lương”…là minh chứng rõ nét. Thơ Mai Thìn cô đọng, chắt lọc ngôn từ, giàu chất suy tưởng, chấm phá, kết thúc bất ngờ, khiến người đọc “giật mình rồi mỉm cười”…

Phạm Ánh là một trong những nhà thơ gắn với làng quê của Bình Định. Thơ anh mộc mạc giản dị, chân chất, bộc lộ tình yêu quê hương, đất nước: “Nhớ quê nhớ đọt rau ngọn cỏ/ nhớ buồn vui bao kham khổ nhọc nhằn…”  hoặc “Xóm làng tôi như quyển sách/ tôi mang theo để đọc lúc một mình..”…

Phạm Văn Phương- một nhà thơ thường khám phá những điều bình dị, gần gũi trong đời sống nhưng lại chất chứa những suy tư sâu sắc. Thơ ông có thể mang hơi hướng hiện thực, không phản ánh những góc cạnh của cuộc sống. Thơ Phạm Văn Phương là thơ tự phát, trong lòng có cảm xúc thật mới bật thành thơ. Anh không cố tình làm thơ và thơ anh không sử dụng nhiều từ ngữ hoa mỹ hay hình ảnh quá phức tạp. Anh ưa chuộng sự giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống thường ngày. Giọng thơ thường trầm lắng, mang tính tự sự và chiêm nghiệm, dễ đi vào lòng người đọc mà không cần quá nhiều sự giải thích: “áo mới em về như buổi nọ/ trong hồn mai cúc đêm ba mươi/ hạt mưa xúng xính rơi ngoài ngõ/ thơm thảo tình em đến cuối đời” (Xuân)

 Trần Thị Huyền Trang là một trong những nhà thơ nữ có tiếng nói riêng. Thơ Trần Thị Huyền Trang giàu cảm xúc, tinh tế, khám phá thế giới nội tâm của người phụ nữ, tình yêu, và vẻ đẹp của cuộc sống với một cái nhìn đầy nhân văn. Thơ Trần Thị Huyền Trang mang một giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ, đầy chất nữ tính. Chị không chọn cách biểu đạt mạnh mẽ hay ồn ào mà đi sâu vào những rung cảm thầm kín, những nỗi niềm sâu lắng của tâm hồn, thể hiện cái nhìn thấu đáo về cuộc đời, về những được mất, hợp tan. Chị thường đặt ra những câu hỏi triết lý nhưng được gói gọn trong những hình ảnh, cảm xúc rất đời thường. Tôi thích cách trải lòng với mẹ của chị: Cảm ơn mẹ đẻ con ra/ Để con đi rủ người ta cùng về/ Dang tay đỡ mảnh trời quê/ Lúa thơm vì rượu, rượu mê vì tình (Tri ân)…

Thơ Triều La Vỹ thường mang phong cách hiện đại, có sự thử nghiệm trong ngôn ngữ và cấu trúc. Anh khám phá những vấn đề mang tính thời đại, những trăn trở của con người trong bối cảnh xã hội nhiều biến động. Đọc thơ Triều La Vỹ, người đọc thú vị khi phát hiện thiên nhiên được nhà thơ thổi hồn căng tràn sức sống (Eo Gió); và tôi thích cách viết này của anh: “Trên ngực gốm sông Côn nằm khóc/ tiếng gào thét ái ân của lửa và đất/ những đứa bé chào đời" gợi hình ảnh thật dữ dội, đầy chất trữ tình có sự kết hợp yếu tố tự nhiên, văn hóa và con người để nói về sự sống, sự tái sinh từ nghệ thuật…

 “Thơ Lê Bá Duy thường trực nhạy cảm trước những va đập và sang chấn tâm lý giữa cảnh vật và con người. Mọi diễn biến chung quanh dễ làm anh tổn thương và xa xótThơ Lê Bá Duy thuộc về mỹ học của nỗi buồn và cái đẹp bình dị giữa nhân gian nên dễ đồng cảm và sẻ chia…”. Đó là những nhận xét của nhà thơ Hồ Thế Hà về thơ Duy…

Lớp trẻ tiêu biểu trong mười năm trở lại đây: Trương Công Tưởng- Một trong những gương mặt trẻ đang dần khẳng định mình với những vần thơ mới mẻ, hiện đại. Thơ Trương Công Tưởng có thể mang tính thử nghiệm, khám phá những góc cạnh khác của đời sống, tư duy.

Vân Phi là một nhà thơ trẻ với giọng điệu riêng, thơ Vân Phi đi sâu vào những chiêm nghiệm cá nhân, những trăn trở của tuổi trẻ trong thời đại số, có nét riêng độc đáo, ngôn ngữ cô đọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ phản chiếu nỗi buồn, cô đơn, hành trình tìm về cội nguồn và ký ức... Hai tập thơ “Ngày mắc cạn” và “Gốm lưu lạc” đã nâng tầm Vân Phi trở thành lớp nhà thơ trẻ Việt Nam có triển vọng “đi xa” trên con đường văn chương… Đặc biệt là Trần Quốc Toàn- một cây bút trẻ có những bứt phá, những tìm tòi về hình thức, ngôn ngữ, góp phần làm mới diện mạo thơ Bình Định. Riêng thơ Duyên An vừa mang vẻ đẹp tinh tế, bay bổng vừa khám phá những rung cảm tinh tế trong cuộc sống…

Nhìn chung từ thế hệ đổi mới và đương đại họ đã góp phần làm mới diện mạo thơ Bình Định, đưa thơ gần hơn với hơi thở cuộc sống hiện đại, đồng thời mở rộng biên độ khám phá về chủ đề và hình thức. Sự đa dạng trong tiếng nói cá nhân đã tạo nên một bức tranh thơ Bình Định phong phú, năng động và giàu sức sống. Đặc biệt, sự xuất hiện của các diễn đàn thơ online, các nhóm thơ trẻ đã tạo nên một không gian sôi động cho thơ Bình Định, cho phép các tác giả trẻ thể hiện mình và tương tác với độc giả, thúc đẩy sự phát triển của thơ ca trong bối cảnh công nghệ.

Đây là thế hệ chịu ảnh hưởng trực tiếp của công cuộc đổi mới và sự bùng nổ của kỷ nguyên số. Họ mang đến một luồng gió mới, phá vỡ những khuôn khổ cũ, mạnh dạn thử nghiệm và đa dạng hóa phong cách. Đặc điểm chung thơ lớp trẻ là chủ đề mở rộng, không ngại khai thác những mảng khuất của đời sống, chiều sâu tâm lý con người. Hình thức thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ vắt dòng được ưa chuộng. Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu cảm, ẩn dụ, đôi khi có phần gai góc, táo bạo. Sự xuất hiện của các diễn đàn, mạng xã hội cũng tạo điều kiện cho các tác giả trẻ thể hiện và giao lưu như: Nhiên Đăng, Vân Phi, My Tiên, Duyên An, Khổng Trường Chiến, Trương Công Tưởng, Khổng Vĩnh An Vi…

"Chất Bình Định" trong thơ ca giai đoạn này không chỉ là những hình ảnh, biểu tượng mang tính địa lý hay lịch sử, mà còn là tinh thần, cốt cách của con người Bình Định: hào sảng, kiên cường, thủy chung, yêu lao động và giàu lòng nhân ái. Những nét đặc trưng này được các nhà thơ khắc họa một cách tinh tế qua từng câu chữ, hình ảnh, tạo nên một bản sắc riêng không thể lẫn với bất kỳ vùng đất nào khác. Dù viết về tình yêu, chiến tranh, cuộc sống thường nhật hay những chiêm nghiệm triết lý, chất Bình Định vẫn luôn hiện hữu, làm nên chiều sâu và sức hấp dẫn cho thơ ca xứ Nẫu.

Thơ Bình Định, cũng như thơ ca Việt Nam nói chung, đang đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh xã hội hiện đại. Sự phát triển của các loại hình giải trí đa phương tiện khiến thơ ca khó cạnh tranh để thu hút sự chú ý của công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Thị trường xuất bản thơ còn gặp nhiều khó khăn, việc đưa tác phẩm đến với độc giả không phải lúc nào cũng dễ dàng. Hơn nữa, trong thời đại thông tin bùng nổ, việc bảo vệ bản quyền, sở hữu trí tuệ cho các tác phẩm thơ cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Cuối cùng, làm thế nào để duy trì và phát huy bản sắc riêng của thơ Bình Định trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi các giá trị văn hóa dễ bị pha trộn, cũng là một câu hỏi lớn.

Bất chấp những thách thức, thơ Bình Định vẫn có những triển vọng tươi sáng. Sự đa dạng hóa và thử nghiệm trong phong cách, thể loại là cơ hội để thơ ca tìm tòi những hướng đi mới, phù hợp với thị hiếu và tư duy của độc giả hiện đại. Vai trò của các hội văn học nghệ thuật, các câu lạc bộ thơ, và đặc biệt là các diễn đàn trực tuyến sẽ ngày càng quan trọng trong việc phát hiện, nuôi dưỡng tài năng và tạo không gian giao lưu cho các nhà thơ. Công nghệ cũng mở ra cơ hội để thơ ca tiếp cận công chúng rộng rãi hơn thông qua các nền tảng số, các hình thức trình diễn thơ đa phương tiện. Với nền tảng truyền thống vững chắc và tinh thần đổi mới không ngừng, thơ Bình Định hoàn toàn có thể tiếp tục khẳng định vị thế và đóng góp vào sự phát triển của văn học Việt Nam.

Chặng đường 50 năm (1975-2025) là một giai đoạn đầy biến động nhưng cũng rất đỗi ý nghĩa đối với thơ Bình Định. Từ cảm hứng sử thi hào hùng trong những năm đầu sau chiến tranh đến những khám phá nội tâm sâu sắc và sự đa dạng trong phong cách ở thời kỳ đổi mới và hội nhập, thơ Bình Định đã có những bước phát triển vượt bậc. Những thành tựu đạt được không chỉ là minh chứng cho tài năng, tâm huyết của các thế hệ nhà thơ xứ Nẫu, mà còn khẳng định sức sống mãnh liệt của một vùng đất giàu truyền thống văn hóa. Dù đối mặt với không ít thách thức, với tinh thần sáng tạo không ngừng và sự kế thừa những giá trị cốt lõi, thơ Bình Định chắc chắn sẽ tiếp tục vươn xa, góp phần làm phong phú thêm diện mạo của văn học Việt Nam đương đại. Và tất nhiên với kiến thức và sự tập hợp thống kê có hạn nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót mong bạn đọc thông cảm!

Quê nhà, tháng 4.2025

L.B.D

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sự hồi quang ký ức trong “Bài thơ cánh võng”
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang
Xem thêm
Văn học Bình Dương – 50 năm một hành trình lặng lẽ và bền bỉ
Bài viết công phu của tác giả Nguyễn Quế không chỉ khắc họa hành trình văn học của vùng đất Thủ suốt 50 năm qua...
Xem thêm
5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”
Bài viết của Lương Cẩm Quyên sẽ đưa bạn đọc khám phá một hồn thơ đầy bản lĩnh, dám giễu đời...
Xem thêm
Thời đương đại nghe lời thơ lục bát ru tình
Bài viết của Tiến sĩ Hà Thanh Vân
Xem thêm
“Nghiêng về phía nỗi đau” - Từ góc nhìn lý thuyết chấn thương
Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Mặc khải của nước, lửa &…
Bài của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Xem thêm
Võ Chí Nhất kể chuyện trinh thám
Một ngày đẹp trời, Võ Chí Nhất gửi tặng tôi cuốn sách vừa ra mắt bạn đọc. Những gì tôi biết về anh, đó là một Đại úy đang công tác trong ngành Công an tuổi đời khoảng ba mươi.
Xem thêm
Bảo Lộc - người thơ ở lại
Nguồn: Văn nghệ Công an
Xem thêm
Nhà thơ Trần Đôn và “hành trình” Rong chơi 2
Ở tuổi U80, nhà thơ Trần Đôn vẫn dồi dào sức sáng tạo, vừa hoàn thành tập thơ Rong chơi 2 – một “hành trình” thi ca “đi dọc đất nước, dọc cuộc đời” đầy chiêm nghiệm.
Xem thêm
Nguyễn Văn Mạnh - Thơ là những trang đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa đã khắc họa chân dung một hồn thơ đa diện, nơi mỗi vần thơ đều thấm đẫm trải nghiệm, nỗi đau, niềm kiêu hãnh và tình yêu tha thiết với con người, đất nước.
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức – Tiếng lòng tha thiết của một đời trải nghiệm
Hai bài cảm nhận của nhà thơ Tố Hoài và nhà thơ Phạm Đình Phú
Xem thêm
Thêm một Nguyễn Trường viết phê bình văn học
Bài đăng Thờ báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Khoảng trời xanh ký ức - Bản tình ca viết về tình yêu “một thời hoa lửa”
Cảm nhận về tập thơ Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam
Xem thêm
Sắc thái riêng từ “Khoảng trời xanh ký ức”
Sáng 30/5/2025, Câu lạc bộ Thơ Phương Nam đã tổ chức buổi ra mắt tập thơ thứ bảy mang tên Khoảng trời xanh ký ức của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một dấu ấn thơ ca thấm đẫm trải nghiệm sống, chan chứa hoài niệm và thấm đượm tình người.
Xem thêm
Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai
Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập Đồng (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.
Xem thêm
Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài
Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.
Xem thêm
Cái tôi trữ tình sâu lắng trong Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền
Đọc tập thơ Hương thời gian của Nguyễn Đình Hiền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2025
Xem thêm