TIN TỨC

Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-07-11 08:26:47
mail facebook google pos stwis
425 lượt xem

Lê Công Minh

Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh

 Quá trình sáng tạo của nhà thơ là sự kết tinh của hồn thơ, sự hòa quyện giữa cảm xúc mãnh liệt và tư tưởng nhân văn cao đẹp cất lên từ hiện thực cuộc đời. Và đó cũng chính là lí do vì sao hai áng thơ “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng” dưới ngòi bút của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả nhiều ấn tượng đẹp.

Thơ ông thể hiện những rung động mãnh liệt, tinh tế, và ấn tượng trong tâm hồn con người trước cuộc sống. Thi ảnh trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh là đời sống tinh thần và tình cảm riêng tư được chắt lọc từ tâm hồn nhà thơ. Hay nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi: “Hình ảnh thơ là nơi tư tưởng, cảm xúc của nhà thơ tình tự, quấn quýt như hồn với xác”. Bên cạnh đó, thơ còn là mảnh đất màu mỡ để tác giả gieo trồng những cảm xúc chân thực từ cái tôi cá nhân của chính mình. Những ý tứ trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh đều nén chặt cảm xúc của nhà thơ, dẫn lối người đọc đến thế giới tâm hồn của nhân vật trữ tình trong thơ. Đọc bài “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng,” hai bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, tôi chợt nhớ đến một phát biểu về thơ của Tố Hữu: “Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” bởi dù được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau nhưng đều cho thấy những rung cảm đầu đời với những kỉ niệm về quê hương, gắn bó với đồng quê đến tận bây giờ qua hai bài thơ của ông.

Ông Nguyễn Vũ Quỳnh thuộc thế hệ thanh niên dấn thân yêu đời từ con nhà nông cầm súng ra trận trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Rời chiến trận trở lại giảng đường đi tới cánh đồng văn chương bởi vậy thơ ông thường mang đậm chất đồng quê. Trước hết bàn về tác phẩm “Cánh đồng mẹ tôi”, người đọc dễ dàng nhận ra xuyên suốt bài thơ là những kỉ niệm tuổi thơ của chính tác giả, những điều giản dị nhưng lại hình thành nên cốt cách, con người ông qua hình ảnh làng quê xưa. Từ những lúc hạn hán khiến cho mùa màng bị ảnh hưởng, sông không có nước, cánh cò cáy cua cũng gầy, thiếu sức sống. Hay là những kỉ niệm về con đường quê xưa cũ nơi luôn gắn bó với tác giả khi còn nhỏ chân lấm bùn, miệng hát những câu hò trong veo. Cái trong veo đó theo nghĩa đẹp từ cuộc sống giản dị đến không khí trong lành mà câu hò cũng trong veo.

 Đó là:

“Trên bàn đám cưới hoa dong

Con sông trở dạ đục trong đôi bờ

Đường quê cái thuở dại khờ

Bùn nâu chân đất câu hò trong veo”

                           (Cánh đồng Mẹ tôi)

Khác so với thời đại bây giờ, khi đám cười cô dâu trên tay hoa hồng, lay-zơn. Xưa kia chỉ có hoa dong đặt ở trên bàn nhưng mà vẫn hạnh phúc như ai. Con người ta có đủ cơm ăn áo mặc có đa dạng sự lựa chọn trong mỗi bữa ăn, vào mỗi dịp đặc biệt hai món ăn truyền thống “bánh chưng, bánh xèo” cũng trở nên phát ngấy. Nhưng phải sống trong tâm hồn nhà thơ mới hiểu được hoàn cảnh sống thiếu thốn, khó khăn thời ấy khi bánh chưng, bánh xèo là điều xa xỉ với những xóm nghèo đồng quê, căn nhà bé nhỏ chỉ giản dị với “một góc vại dưa”. Khi đọc đến khổ thơ thứ tư có lẽ nơi ấy tràn ngập sự luyến tiếc xen lẫn chút mừng vui của tác giả khi chị gái đi lấy chồng, vui vì cuộc đời chị đã có niềm vui hạnh phúc:

“Bầu trời thiêu cháy cỏ hoang

Vẫn vang vọng tiếng dô khoan bến Sòng

Cái ngày chị đi lấy chồng

Hoa chuối thắm đỏ bờ sông cầu vồng”.

                         (Cánh đồng Mẹ tôi)

Có phần khác biệt với những khổ thơ phía trên, khổ thơ cuối chỉ có vỏn vẹn hai câu nhưng là hai câu kết chất chứa ý tứ niềm vui hy vọng được mùa ở cái đất quê nghèo:

“Cái ngày cây lúa trổ bông

Lời ru gặt giữa cánh đồng mẹ tôi”

                         (Cánh đồng Mẹ tôi)

Có lẽ cái thời điểm cây lúa trổ bông, đến mùa thu hoạch cũng là lúc chủ thể trữ tình lại cảm nhận được những lời ru của mẹ, lời ru ấy gắn liền, đi theo ông trong suốt hành trình dài của cuộc đời. Một lời ru tha thiết, trìu mến, ủ chín yêu thương.

Cũng là một tác phẩm mang chất đồng quê khác của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh đó là bài “Chất vấn cánh đồng”. Vẫn là những hình ảnh đồng quê gắn liền trong hành trình trưởng thành của tác giả như lúa, khoai, những đứa trẻ với mong ước lớn lên trở thành những con người đem theo hoài bão, ước mơ, lí tưởng cao đẹp, “như hương hoa cải”. Ông đặt tên cho bài thơ “Chất vấn cánh đồng” và xem như Cánh đồng cũng là một chủ thể để chất vấn. Ông chất vấn gì đây?

“Bên kia cánh đồng làng. Khoai

Bên này cánh đồng làng. Lúa

Lớn lên chúng mình như hương hoa cải

Bay xa để lại quê nhà

Người trẻ bây giờ đi xa

Mấy ai hiểu muối trắng trên vai áo Cha

Mồ hôi ướt đầm sau lưng áo Mẹ

Để có cánh đồng bên con suối, bờ sông

Để có cánh cò khiêng nắng mênh mông

Để có dẻo thơm hạt gạo trắng ngần

Để góp phần đánh tháng ngoại xâm”

                      (Chất vấn cánh đồng)

Tình mẫu tử, phụ tử thường mang tính biểu tượng nhưng trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh lại mang tính nhân văn sâu sắc. Qua cách ông sử dụng tinh tế nghệ thuật điệp ngữ kết hợp điệp cấu trúc câu, đã gieo vào lòng người nhiều suy tư về những vất vả của người làm cha mẹ, những con người tần tảo, giàu đức hi sinh suy cho cùng tất cả điều ấy cũng là vì con cháu. Sang tới khổ thơ thứ ba, nơi tràn ngập nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của chính tác giả, thời ấy ông còn trẻ, vô tư hồn nhiên chưa hiểu hết được cái vất vả của cha mẹ. Điều ấy được thể hiện tinh tế qua câu thơ so sánh “Vô tư như mây trời đỏng đảnh đáy sông” và nghệ thuật điệp ngữ “Chưa biết lẽ đời, chưa hiểu hết nhà nông”, “mây trời đỏng đảnh”. Hiểu được hoàn cảnh của người thi sĩ, người đọc chắc hẳn lí giải được sự luyến tiếc xen lẫn chút bâng khuâng khi làng quê giờ đây không còn mang tiếng quê như trước nữa, những hình ảnh quen thuộc gắn bó với tác giả thời ấu thơ giờ đây cũng chẳng thắng nổi cái dòng chảy vô tận của thời gian, những hình ảnh được tác giả bộc lộ, chất vấn xuyên suốt khổ thơ cuối của tác phẩm bằng khổ thơ lục bát chất chứa cảm xúc mất mát cái vô tư của thời tuổi trẻ và nhất là quê mất cả dòng sông xưa và đó cũng là tại sao?

“Đâu rồi bông trắng như mây

Để cho con cháu về đây thuở nào

Lạnh về ngọn gió hanh hao

Con sông không chảy ồn ào quê xưa

Làng không còn tiếng võng đưa

Trẻ không còn tắm dưới mưa tồng ngồng

Chia xa rũ rượi cánh đồng

Chiều qua quê mất cả dòng sông xưa”

                              (Chất vấn cánh đồng)

Cũng bàn về thơ, Pau Tốp Ski nhà thơ nổi tiếng người Nga cho rằng: “Phải sống trong hồn nhà thơ mới hiểu được triết lí thơ của tác giả”. Khi ta sống trong hồn nhà thơ, ta sẽ nhận ra những nét tương đồng và khác biệt trong hai tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh. Ta dễ dàng nhận thấy cả hai bài thơ giống như một câu chuyện về cánh đồng của tác giả, giản dị và chân thành. Lời thơ nhẹ nhàng, tự nhiên, ngôn từ không một chút gọt giũa công phu nhưng lại đẹp, mang chất lắng sâu của đồng quê và tính triết lí sâu sắc. Còn sự khác biệt nằm ở chỗ hai tác phẩm được sáng tác vào hai thời điểm khác nhau, khi tác giả còn trẻ và khi ông trưởng thành. Đặc biệt hơn ở tác phẩm thứ hai “Chất vấn cánh đồng”, lời thơ như những lời giãi bày trong tâm hồn tác giả về những cái mất mát ở đồng quê và cảm thương cho sự vất vả của cha mẹ qua cách ông sử dụng thể thơ tự do và kết bằng khổ thơ lục bát đượm buồn của thời thế hôm nay. Ngược lại bài thơ “Cánh đồng mẹ tôi” lại theo thể thơ lục bát, tác phẩm này có phần ngắn hơn về mặt dung lượng nhưng lại đầy ắp những kỉ niệm khó quên thời xa xưa của chủ thể trữ tình. Chính sự khác biệt trong thời điểm sáng tác, thể thơ đã khắc sâu thêm vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Nếu “Cánh đồng mẹ tôi” hay ở những bút pháp nghệ thuật tài hoa, ngôn từ được minh họa những đẹp một cách dịu dàng thì “Chất vấn cánh đồng” để lại những triết lí sâu sắc, mất mát về đồng quê thời công nghiệp hóa về nơi ông sinh ra và lớn lên. Hai tác phẩm thơ với những nét tình tứ nối tiếp hình ảnh đẹp để đến cuối cùng người đọc nhận ra cái đẹp, cái hay đôi khi lại nằm ngay trong những điều giản dị, bình thường, đôi khi ở những điều bình dị, thân quen tưởng chừng không thể nào thành thơ mà trở thành thơ thật, bởi cảm xúc sáng tạo lay động từ trái tim thi sĩ.

Không phải ngẫu nhiên mà cha đẻ của thi ca Hy Lạp: Hô-Me-Rơ đã nói: “Một mũi tên và một ngòi bút có thể đâm xuyên qua trái tim của con người”. Bởi lẽ nếu mũi tên làm trái tim rỉ máu, thì ngòi bút lại làm cho trái tim ta rộng mở. Và chắc chắn, trái tim của ta sẽ rộng lớn hơn khi thấm vào trong đó là câu chữ của người cầm bút Nguyễn Vũ Quỳnh cùng hai áng thơ với vẻ đẹp của đồng quê “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng” hấp dẫn làm rung động xao xuyến con tim người đọc. Xin chúc ông sức khỏe, có thêm nhiều tác phẩm thơ hay nữa.

Hà Nội ngày 20/11/2024

L.C.M

* Tác giả Lê Công Minh – học sinh lớp 12, Trường Trần Nhân Tông, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm