TIN TỨC

Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-07-11 08:26:47
mail facebook google pos stwis
344 lượt xem

Lê Công Minh

Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.

Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh

 Quá trình sáng tạo của nhà thơ là sự kết tinh của hồn thơ, sự hòa quyện giữa cảm xúc mãnh liệt và tư tưởng nhân văn cao đẹp cất lên từ hiện thực cuộc đời. Và đó cũng chính là lí do vì sao hai áng thơ “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng” dưới ngòi bút của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả nhiều ấn tượng đẹp.

Thơ ông thể hiện những rung động mãnh liệt, tinh tế, và ấn tượng trong tâm hồn con người trước cuộc sống. Thi ảnh trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh là đời sống tinh thần và tình cảm riêng tư được chắt lọc từ tâm hồn nhà thơ. Hay nói như nhà văn Nguyễn Đình Thi: “Hình ảnh thơ là nơi tư tưởng, cảm xúc của nhà thơ tình tự, quấn quýt như hồn với xác”. Bên cạnh đó, thơ còn là mảnh đất màu mỡ để tác giả gieo trồng những cảm xúc chân thực từ cái tôi cá nhân của chính mình. Những ý tứ trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh đều nén chặt cảm xúc của nhà thơ, dẫn lối người đọc đến thế giới tâm hồn của nhân vật trữ tình trong thơ. Đọc bài “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng,” hai bài thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, tôi chợt nhớ đến một phát biểu về thơ của Tố Hữu: “Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” bởi dù được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau nhưng đều cho thấy những rung cảm đầu đời với những kỉ niệm về quê hương, gắn bó với đồng quê đến tận bây giờ qua hai bài thơ của ông.

Ông Nguyễn Vũ Quỳnh thuộc thế hệ thanh niên dấn thân yêu đời từ con nhà nông cầm súng ra trận trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Rời chiến trận trở lại giảng đường đi tới cánh đồng văn chương bởi vậy thơ ông thường mang đậm chất đồng quê. Trước hết bàn về tác phẩm “Cánh đồng mẹ tôi”, người đọc dễ dàng nhận ra xuyên suốt bài thơ là những kỉ niệm tuổi thơ của chính tác giả, những điều giản dị nhưng lại hình thành nên cốt cách, con người ông qua hình ảnh làng quê xưa. Từ những lúc hạn hán khiến cho mùa màng bị ảnh hưởng, sông không có nước, cánh cò cáy cua cũng gầy, thiếu sức sống. Hay là những kỉ niệm về con đường quê xưa cũ nơi luôn gắn bó với tác giả khi còn nhỏ chân lấm bùn, miệng hát những câu hò trong veo. Cái trong veo đó theo nghĩa đẹp từ cuộc sống giản dị đến không khí trong lành mà câu hò cũng trong veo.

 Đó là:

“Trên bàn đám cưới hoa dong

Con sông trở dạ đục trong đôi bờ

Đường quê cái thuở dại khờ

Bùn nâu chân đất câu hò trong veo”

                           (Cánh đồng Mẹ tôi)

Khác so với thời đại bây giờ, khi đám cười cô dâu trên tay hoa hồng, lay-zơn. Xưa kia chỉ có hoa dong đặt ở trên bàn nhưng mà vẫn hạnh phúc như ai. Con người ta có đủ cơm ăn áo mặc có đa dạng sự lựa chọn trong mỗi bữa ăn, vào mỗi dịp đặc biệt hai món ăn truyền thống “bánh chưng, bánh xèo” cũng trở nên phát ngấy. Nhưng phải sống trong tâm hồn nhà thơ mới hiểu được hoàn cảnh sống thiếu thốn, khó khăn thời ấy khi bánh chưng, bánh xèo là điều xa xỉ với những xóm nghèo đồng quê, căn nhà bé nhỏ chỉ giản dị với “một góc vại dưa”. Khi đọc đến khổ thơ thứ tư có lẽ nơi ấy tràn ngập sự luyến tiếc xen lẫn chút mừng vui của tác giả khi chị gái đi lấy chồng, vui vì cuộc đời chị đã có niềm vui hạnh phúc:

“Bầu trời thiêu cháy cỏ hoang

Vẫn vang vọng tiếng dô khoan bến Sòng

Cái ngày chị đi lấy chồng

Hoa chuối thắm đỏ bờ sông cầu vồng”.

                         (Cánh đồng Mẹ tôi)

Có phần khác biệt với những khổ thơ phía trên, khổ thơ cuối chỉ có vỏn vẹn hai câu nhưng là hai câu kết chất chứa ý tứ niềm vui hy vọng được mùa ở cái đất quê nghèo:

“Cái ngày cây lúa trổ bông

Lời ru gặt giữa cánh đồng mẹ tôi”

                         (Cánh đồng Mẹ tôi)

Có lẽ cái thời điểm cây lúa trổ bông, đến mùa thu hoạch cũng là lúc chủ thể trữ tình lại cảm nhận được những lời ru của mẹ, lời ru ấy gắn liền, đi theo ông trong suốt hành trình dài của cuộc đời. Một lời ru tha thiết, trìu mến, ủ chín yêu thương.

Cũng là một tác phẩm mang chất đồng quê khác của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh đó là bài “Chất vấn cánh đồng”. Vẫn là những hình ảnh đồng quê gắn liền trong hành trình trưởng thành của tác giả như lúa, khoai, những đứa trẻ với mong ước lớn lên trở thành những con người đem theo hoài bão, ước mơ, lí tưởng cao đẹp, “như hương hoa cải”. Ông đặt tên cho bài thơ “Chất vấn cánh đồng” và xem như Cánh đồng cũng là một chủ thể để chất vấn. Ông chất vấn gì đây?

“Bên kia cánh đồng làng. Khoai

Bên này cánh đồng làng. Lúa

Lớn lên chúng mình như hương hoa cải

Bay xa để lại quê nhà

Người trẻ bây giờ đi xa

Mấy ai hiểu muối trắng trên vai áo Cha

Mồ hôi ướt đầm sau lưng áo Mẹ

Để có cánh đồng bên con suối, bờ sông

Để có cánh cò khiêng nắng mênh mông

Để có dẻo thơm hạt gạo trắng ngần

Để góp phần đánh tháng ngoại xâm”

                      (Chất vấn cánh đồng)

Tình mẫu tử, phụ tử thường mang tính biểu tượng nhưng trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh lại mang tính nhân văn sâu sắc. Qua cách ông sử dụng tinh tế nghệ thuật điệp ngữ kết hợp điệp cấu trúc câu, đã gieo vào lòng người nhiều suy tư về những vất vả của người làm cha mẹ, những con người tần tảo, giàu đức hi sinh suy cho cùng tất cả điều ấy cũng là vì con cháu. Sang tới khổ thơ thứ ba, nơi tràn ngập nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của chính tác giả, thời ấy ông còn trẻ, vô tư hồn nhiên chưa hiểu hết được cái vất vả của cha mẹ. Điều ấy được thể hiện tinh tế qua câu thơ so sánh “Vô tư như mây trời đỏng đảnh đáy sông” và nghệ thuật điệp ngữ “Chưa biết lẽ đời, chưa hiểu hết nhà nông”, “mây trời đỏng đảnh”. Hiểu được hoàn cảnh của người thi sĩ, người đọc chắc hẳn lí giải được sự luyến tiếc xen lẫn chút bâng khuâng khi làng quê giờ đây không còn mang tiếng quê như trước nữa, những hình ảnh quen thuộc gắn bó với tác giả thời ấu thơ giờ đây cũng chẳng thắng nổi cái dòng chảy vô tận của thời gian, những hình ảnh được tác giả bộc lộ, chất vấn xuyên suốt khổ thơ cuối của tác phẩm bằng khổ thơ lục bát chất chứa cảm xúc mất mát cái vô tư của thời tuổi trẻ và nhất là quê mất cả dòng sông xưa và đó cũng là tại sao?

“Đâu rồi bông trắng như mây

Để cho con cháu về đây thuở nào

Lạnh về ngọn gió hanh hao

Con sông không chảy ồn ào quê xưa

Làng không còn tiếng võng đưa

Trẻ không còn tắm dưới mưa tồng ngồng

Chia xa rũ rượi cánh đồng

Chiều qua quê mất cả dòng sông xưa”

                              (Chất vấn cánh đồng)

Cũng bàn về thơ, Pau Tốp Ski nhà thơ nổi tiếng người Nga cho rằng: “Phải sống trong hồn nhà thơ mới hiểu được triết lí thơ của tác giả”. Khi ta sống trong hồn nhà thơ, ta sẽ nhận ra những nét tương đồng và khác biệt trong hai tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh. Ta dễ dàng nhận thấy cả hai bài thơ giống như một câu chuyện về cánh đồng của tác giả, giản dị và chân thành. Lời thơ nhẹ nhàng, tự nhiên, ngôn từ không một chút gọt giũa công phu nhưng lại đẹp, mang chất lắng sâu của đồng quê và tính triết lí sâu sắc. Còn sự khác biệt nằm ở chỗ hai tác phẩm được sáng tác vào hai thời điểm khác nhau, khi tác giả còn trẻ và khi ông trưởng thành. Đặc biệt hơn ở tác phẩm thứ hai “Chất vấn cánh đồng”, lời thơ như những lời giãi bày trong tâm hồn tác giả về những cái mất mát ở đồng quê và cảm thương cho sự vất vả của cha mẹ qua cách ông sử dụng thể thơ tự do và kết bằng khổ thơ lục bát đượm buồn của thời thế hôm nay. Ngược lại bài thơ “Cánh đồng mẹ tôi” lại theo thể thơ lục bát, tác phẩm này có phần ngắn hơn về mặt dung lượng nhưng lại đầy ắp những kỉ niệm khó quên thời xa xưa của chủ thể trữ tình. Chính sự khác biệt trong thời điểm sáng tác, thể thơ đã khắc sâu thêm vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Nếu “Cánh đồng mẹ tôi” hay ở những bút pháp nghệ thuật tài hoa, ngôn từ được minh họa những đẹp một cách dịu dàng thì “Chất vấn cánh đồng” để lại những triết lí sâu sắc, mất mát về đồng quê thời công nghiệp hóa về nơi ông sinh ra và lớn lên. Hai tác phẩm thơ với những nét tình tứ nối tiếp hình ảnh đẹp để đến cuối cùng người đọc nhận ra cái đẹp, cái hay đôi khi lại nằm ngay trong những điều giản dị, bình thường, đôi khi ở những điều bình dị, thân quen tưởng chừng không thể nào thành thơ mà trở thành thơ thật, bởi cảm xúc sáng tạo lay động từ trái tim thi sĩ.

Không phải ngẫu nhiên mà cha đẻ của thi ca Hy Lạp: Hô-Me-Rơ đã nói: “Một mũi tên và một ngòi bút có thể đâm xuyên qua trái tim của con người”. Bởi lẽ nếu mũi tên làm trái tim rỉ máu, thì ngòi bút lại làm cho trái tim ta rộng mở. Và chắc chắn, trái tim của ta sẽ rộng lớn hơn khi thấm vào trong đó là câu chữ của người cầm bút Nguyễn Vũ Quỳnh cùng hai áng thơ với vẻ đẹp của đồng quê “Cánh đồng mẹ tôi” và “Chất vấn cánh đồng” hấp dẫn làm rung động xao xuyến con tim người đọc. Xin chúc ông sức khỏe, có thêm nhiều tác phẩm thơ hay nữa.

Hà Nội ngày 20/11/2024

L.C.M

* Tác giả Lê Công Minh – học sinh lớp 12, Trường Trần Nhân Tông, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm