TIN TỨC

Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-18 11:53:40
mail facebook google pos stwis
267 lượt xem

“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương. Với bài viết sâu sắc dưới đây, cây bút trẻ Ngô Xuân Vy đã phân tích tinh tế sự hòa quyện hiếm hoi giữa cái nhìn thời sự và chiều sâu nhân văn – một bản ngã báo chí được thức tỉnh trong vỏ bọc lặng thầm của một nhà văn. Một bài viết lay động và gợi suy tư, đặc biệt đối với những ai đang sống với nghiệp chữ nghĩa và sự thật”
 

NGÔ XUÂN VY

Chọn ngẫm cùng Dưới gầm trời lưu lạc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng là chấp nhận một cuộc đồng hành đặc biệt: cuộc lữ hành giữa sự thật khốc liệt của đời sống và vẻ đẹp đầy ám ảnh của văn chương. Không đơn thuần là một tập bút ký, cũng không chỉ là những ghi chép báo chí kiểu truyền thống. Nó là sự kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, thấu hiểu với nỗi đau và cứng cỏi trong hành trình đi đến tận cùng sự thật.

Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng - một cây bút sắc sảo, giàu bản lĩnh trong làng báo chí điều tra, nay lại hiện diện với một giọng điệu khác: đằm sâu, man mác buồn, nhiều chất suy tư, hơn là phơi bày. Anh không từ bỏ nghề báo, mà đưa báo chí lên một nấc thang khác, nơi chữ nghĩa vừa mang tính thời sự, vừa mang tính nhân sinh. Và chính ở nơi ấy, người đọc bắt gặp một Đỗ Doãn Hoàng, một nhà báo viết văn, trong hình hài đầy mâu thuẫn mà quyến rũ.

1. Khi văn chương là đường dẫn ngầm vào lòng sự thật

 Dưới gầm trời lưu lạc gợi mở một không gian gập ghềnh, bất định. Gầm trời: một cách nói ngược đầy thi vị, như thể tác giả đang bước đi trong bóng tối của hiện thực, nhưng đôi mắt luôn ngước tìm vòm trời cao. Lưu lạc: không phải là sự lạc lối, mà là hành trình không ngừng nghỉ của một kẻ đi tìm con người, đi tìm chân lý trong những xó xỉnh bị lãng quên.

Và quả thật, từ những trang đầu tiên, chúng ta nhận ra đây là cuốn sách được viết bằng đôi chân của một nhà báo từng đi, từng chứng kiến, từng chịu va đập, nhưng lại thấm đẫm linh hồn của một nhà văn “Từ bấy, những vườn bướm màu sắc, những bãi biển mê hồn, những kiến trúc thực dân, cả sự tử tế chan hoà và lối sống chậm bên các toà cao ốc của người cù lao Cau luôn khiến tôi nhung nhớ...” Những phận người xuất hiện trong sách: người mẹ gùi con đi qua biên giới, người đàn ông làm nghề bẫy rắn, bé gái đi nhặt than bên bờ suối chết. Tất cả đều là thật, nhưng dưới ngòi bút của tác giả, họ không chỉ là những nhân vật báo chí, họ trở thành biểu tượng của nỗi chịu đựng, của khát vọng sống và vẻ đẹp tiềm tàng nơi tận cùng thống khổ.

Văn chương của Đỗ Doãn Hoàng không tô hồng sự thật, không làm dịu đi nỗi đau, nhưng lại có một cách rất riêng để khiến người đọc phải dừng lại, phải nghĩ ngợi. Anh không giật tít bằng cảm xúc rẻ tiền, mà lay động bằng hình ảnh: một cái nhìn xa xôi, một bàn tay lạnh run, một tiếng thở dài trong đêm rừng. Từng chi tiết nhỏ ấy, được níu kéo để sống dậy từng trang văn. 

2. Nhà báo và sự cô độc trong vai trò người kể chuyện

Làm báo đã là đơn độc. Làm báo mà còn mang trong mình tâm hồn nhà văn - đó là một kiểu cô độc khôn nguôi. Dưới ngầm trời lưu lạc là nơi Đỗ Doãn Hoàng hiện lên như một lữ khách bị lưu đày khỏi thế giới ồn ào, thực dụng. Anh đi xuyên qua những vùng đất “ngoài lề truyền thông”, không phải để săn tin mà để lắng nghe. Anh không quan tâm đến tốc độ đăng tải, mà đau đáu về điều chưa kịp nói.

Không ít lần, Hoàng để người đọc cảm nhận sự trống trải trong chính hành trình của mình. Giữa núi rừng heo hút hay trên chuyến xe đêm đổ về miền biên viễn, nhân vật “tôi” trong sách luôn mang theo sự lặng thầm, ngẫm ngợi. Nhà báo ấy không đơn thuần là người thu thập tư liệu, mà còn là kẻ đối thoại với chính mình: “Tôi đã viết đủ chưa? Tôi có quyền kể về nỗi đau của người khác không?”.

Đó là câu hỏi của một người viết có lương tri – điều đang trở nên hiếm hoi giữa thời đại mà nhà báo dễ bị cuốn vào vòng xoáy của tin nhanh. Và chính vì có lương tri, anh mới dám đau, mới dám chọn cách viết khó hơn, chậm rãi, sâu sắc, thậm chí không “thời sự” nữa, nhưng lại mang tính vĩnh cửu.

3. Sự hòa quyện hiếm hoi giữa chất liệu đời và tinh thần văn học

Dưới ngầm trời lưu lạc có kết cấu như một bản giao hưởng với nhiều cung bậc. Mỗi bài viết là một chương, mỗi nhân vật là một nốt nhạc. Nhưng điểm kỳ lạ là: dù đề tài đa dạng từ người tị nạn, di cư, thân phận người lính cũ, đến những vùng đất hoang sơ, thì toàn bộ cuốn sách vẫn mang một nhịp điệu thống nhất: nhịp của sự cảm thông.

Đỗ Doãn Hoàng không kể chuyện như một nhà báo, anh kể như một người từng sống qua đời sống của nhân vật. Anh viết bằng trải nghiệm, bằng va đập, bằng sự “đắm chìm” chứ không “tác nghiệp”. Ở đó, ngôn ngữ báo chí được chuyển hóa thành ngôn ngữ văn học.

Không nhiều nhà báo có khả năng tạo ra những hình ảnh như thế. Nhưng Hoàng không làm vậy để phô diễn. Anh viết như một bản năng. Và điều ấy làm nên chất riêng: vừa nhòe ranh giới giữa báo chí và văn học, vừa định hình một dòng chảy mới cho thể loại bút ký hiện đại, nơi con chữ vừa mang tin, vừa mang tình.

4. Một tấm gương soi lại nghề viết: Thức tỉnh và tự vấn

Có thể nói, Dưới ngầm trời lưu lạc không chỉ là cuốn sách để đọc, mà còn là để soi. Soi vào những giới hạn của nghề viết hôm nay. Soi vào những câu hỏi muôn thuở: Viết để làm gì? Viết cho ai? Và liệu người viết còn đủ can đảm để đặt nhân phẩm lên trên sự nghiệp?

Bằng chính lối viết nhiều tầng bậc của mình, Hoàng đã đặt ra những tiêu chuẩn ngầm cho người làm báo mang tâm hồn văn sĩ: Không thỏa hiệp với sự dễ dãi. Không đánh mất sự đồng cảm. Và quan trọng nhất: không từ bỏ trách nhiệm kể lại thế giới này bằng đôi mắt nhân văn nhất có thể.

Không phải ai cũng cần viết như Hoàng. Nhưng đọc Hoàng, người làm báo sẽ thấy mình cần sống sâu hơn với nghề. Người đọc sẽ thấy mình cần chậm lại để lắng nghe. Và văn chương trong cái vỏ bọc báo chí, sẽ lại có chỗ đứng như một thứ ánh sáng, soi vào những góc khuất mà ánh đèn thời sự thường bỏ qua, một ngòi bút mang dáng dấp của đôi chân.

Người ta thường ví ngòi bút nhà báo như một thứ vũ khí. Nhưng ở Đỗ Doãn Hoàng, ngòi bút không chiến đấu bằng sự giận dữ, mà bằng sự lặng thầm của một đôi chân không ngừng lưu lạc. Chân đi đến đâu, chữ thấm đến đó. Chân bước vào vùng tối, chữ hóa thành ánh sáng.

Dưới ngầm trời lưu lạc là minh chứng cho một kiểu viết hiếm hoi, nơi nghề báo không là kẻ thợ săn thông tin, mà là người hành hương. Và Đỗ Doãn Hoàng, trong sự hòa quyện giữa nhà báo và nhà văn, đã viết nên một hành trình đầy ám ảnh, đầy cảm xúc, khiến người đọc không thể thờ ơ, khiến người làm báo phải nhìn lại mình.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm