TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • 5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”

5 sắc thái của một giọng thơ lạ trong “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-26 06:17:24
mail facebook google pos stwis
963 lượt xem

Ru say mượn tỉnh – Ru tình mượn nhau" của Diễm Thuyên – ví như "năm tầng mùi trong một loại rượu thơ rất riêng". Từ cái "tưng tửng" đầy nội tâm đến sự "đàn bà" nhưng không ủy mị, từ trạng thái "tỉnh mà vẫn say" đến chất "lạ mà không lập dị", và cuối cùng là thơ như "nơi tha thứ cuối cùng" – bài viết của Lương Cẩm Quyên sẽ đưa bạn đọc khám phá một hồn thơ đầy bản lĩnh, dám giễu đời, thương đời và đủ tỉnh táo để tha thứ cuộc đời bằng thơ. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này, mời quý độc giả cùng đọc và đồng cảm!


Các nhà thơ Lương Cẩm Quyên (trái) và Đoàn Thị Diễm Thuyên


LƯƠNG CẨM QUYÊN
(Viết về tập thơ “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau” của Đoàn Thị Diễm Thuyên)

Trong rất nhiều giọng thơ nữ đương đại, Diễm Thuyên là một trường hợp “khó xếp loại”. Không dịu dàng kiểu lục bát mướt mát, cũng chẳng trào phúng theo kiểu “thơ tếu” xu thời. Chị đi một lối riêng – một kiểu đàn bà biết đau, biết giễu, biết yêu, nhưng nhất định không làm khổ thơ vì nước mắt.

Thơ Diễm Thuyên ngắn, dứt gọn – nhưng thường để lại một vết khía thầm. Một nụ cười bật ra ở khổ đầu, chưa dứt đã thấy cay xè ở cuối bài. Một ngón tay khều nhẹ ở câu một, nhưng đến câu ba thì đã nhói tim rồi.

Dưới đây là 5 sắc thái đặc trưng, như năm tầng mùi trong một loại rượu thơ rất riêng – Ru say muợn tình:

1. Tưng tửng – nhưng không hề nhảm

Cái “tửng” của Diễm Thuyên không phải để mua vui. Nó là cách tự vệ, là áo khoác cho những mảnh run run phía trong thân thể.

Ru anh hoa sứ đưa hương

Còn em – “quỷ sứ” ẩm ương lắm trò

Anh ngủ đi, mình hẹn hò

Em leo vào mộng, em bò vào mơ

(Ru anh 9)

Nghe thì tưởng đùa. Nhưng đằng sau dáng bò, dáng mơ ấy là cả một nội tâm xáo động. Cái “quỷ sứ” của chị – vừa nghịch, vừa thương.

2. Đàn bà – nhưng không ủy mị

Thơ chị đàn bà đến tận chân tóc, nhưng chưa từng van vỉ một tình yêu nào. Đàn bà trong thơ Diễm Thuyên biết mình cô đơn, và biết mình vẫn đáng yêu trong chính cô đơn ấy.

Đàn bà xuân chẳng còn son

Đàn ông hạ úa sao còn chê nhau?

(Ru anh 5)

Một câu lục bát dằn lòng – nhưng không bi lụy. Là giọng nói thẳng, không hờn dỗi, không nhún nhường. Là tiếng đàn bà dám đối thoại sòng phẳng với tình yêu – kể cả khi nó trễ.

3. Tỉnh – mà vẫn say

Tập thơ tên “Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau”, nhưng người viết không hề mụ mị. Trái lại, càng say – lại càng tỉnh. Tỉnh để nhận ra những giới hạn, những ngã ba của đời sống tình cảm.

Ru anh lời của trăng rằm

Của đêm ta lạc chỗ nằm gần nhau

Chỉ là thoang thoảng hương cau

Mộng xưa vườn cũ bạc đầu còn vương

(Ru anh 6)

Cái say của Diễm Thuyên là một cách đắm mình để soi lại bản thể. Là khi đàn bà dám bước qua những dở dang, với đôi mắt vẫn mở.

4. Lạ – mà không lập dị

Sự “lạ” trong thơ Diễm Thuyên không đến từ hình thức, không đến từ những chơi chữ cực đoan. Nó đến từ cách cảm. Một kiểu cảm rất riêng, vừa bản năng, vừa tinh tế – và tuyệt nhiên không vô nghĩa.

Ru anh gió chướng luồn đêm

Đôi ta ngược mộng, buồn chêm giấc gầy

...

Ru anh xuân mộng rập rình

Mộng xuôi, ta ngược bóng mình vào yêu…

(Ru anh 32)

Những liên tưởng như “bóng mình vào yêu” không chỉ là một hình ảnh – mà là một trạng thái. Trạng thái yêu không cần logic, chỉ cần rung động.

5. Thơ – là nơi tha thứ cuối cùng

Diễm Thuyên không oán trách đời. Không buộc tội ai trong thơ. Chị chỉ viết – như một cách tha thứ. Tha thứ cho mình. Tha thứ cho người. Tha thứ cho những vụn vỡ không hình hài.

Ru anh trả bóng cho hình

Trả cũ cho mới trả mình cho ta

Ru anh tiễn ánh trăng tà

Tiễn đêm cạn giấc. Ngày ra cạn lời…

(Ru anh 14)

Lời ru – như lời tiễn biệt. Không níu kéo, không đay nghiến. Mềm. Nhẹ. Nhưng vẫn chạm được vào những nơi sâu kín nhất trong lòng người đọc.

Thơ Diễm Thuyên giống như một ly rượu ủ lâu – mở ra nghe thơm, uống rồi mới tê. Tê vì những điều tưởng là đã quên. Tê vì một nụ cười dịu dàng – mà khiến ta tái buốt vì lạnh.

“Ru say muợn tỉnh – Ru tình mượn nhau” không phải là một tập thơ để đọc cho vui, mà là để đọc khi buồn. Đọc để thấy: có một người đàn bà từng đau giống mình – mà vẫn viết ra được những câu thơ mỏng nhẹ như khói, nhưng lắng lại rất lâu sau đó.

Và điều đáng quý nhất là: chị không cố làm thơ để được khen là lạ. Thơ Diễm Thuyên lạ – vì chị là một người đàn bà lạ. Lạ ở chỗ: đủ thông minh để giễu đời, đủ sâu để thương đời, và đủ tỉnh táo để tha thứ nó bằng thơ.

Yêu thương và chúc em với những đứa con tinh thần tương lai ngày càng độc lạ sâu sắc lên một tầm cao hơn nữa nhé.

L.C.Q

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm