TIN TỨC

Sự hồi quang ký ức trong “Bài thơ cánh võng”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-04 07:40:54
mail facebook google pos stwis
503 lượt xem

Nhà thơ ĐẶNG HUY GIANG

Khi bắt đầu chớm đến đầu con dốc phía bên kia cuộc đời, nhất là bước vào tuối “xưa nay hiếm”, con người ta thường có thói quen ngoảnh lại. Ở đây, ngoảnh lại để nhìn lại chặng hành trình đã qua. Ngoảnh lại để hồi tưởng những vui buồn của cuộc đời mình. Ngoảnh lại để nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em, nhớ những người đồng đội. Ngoảnh lại cũng là để nhớ mình da diết. Thêm nữa, Ngoảnh lại cũng là dịp “xốc” lại mình, để sống sao cho phải với những tháng ngày đã qua.

Nguyễn Vũ Quỳnh với tác phẩm mới “Bài ca cánh võng” của ông, không phải là một trường hợp ngoại lệ. Chỉ có cái khác: Mức độ và phạm vi của sự ngoảnh lại của ông mang tính nhất quán, bao trùm và sự ngoảnh lại của ông như là sự hồi quang ký ức. Nói cách khác: Nguồn sáng của ký ức với những  nét riêng biệt của nó, trong nỗi ám ảnh khôn nguôi, đang trở lại với ông mãnh liệt và dào dạt hơn bao giờ hết. Đã thế, sự ngoảnh lại này lại được soi chiếu dưới con mắt của hiện tại, trải qua sự thử thách của thời gian, nên có giá trị thực chứng và thuyết phục rất cao.

 Đó là nỗi nhớ quê và nhớ mẹ đến “cồn cào cả khuya”, “nhớ xa xót, nhớ rưng rưng/ nhớ đến thế, nhớ chưa từng…bạn ơi” trong “cánh rừng thừa nắng thiếu mưa” mà nhớ “Quê nhà đang vụ lúa chiêm/ Chao ôi là nhớ ngả nghiêng cánh đồng” (“Trăng treo đầu võng”). Phải nói rằng nỗi nhớ thật là da diết.

Đó là nỗi nhớ mẹ gắn với cây lúa, với hạt thóc, với dảnh mạ, với tiếng trời, tiếng đất, tiếng mồ hôi, tiếng nước mắt của một đời người. Điều này được thể hiện qua “Mẹ và cây lúa ngày xưa”. Đây là một tứ thơ ấn tượng, mang tính khái quát cao, dành “kính tặng Mẹ Việt Nam một thời gian khổ”. Chỉ có ý thức sâu sắc về vai trò của cây lúa trong đời sống người Việt với nền “văn minh lúa nước” từ bao đời nay, tác giả mới có thể viết được những câu thơ nặng lòng như thế này:

Lúa là mẹ của thóc sinh ra gạo

Gạo quý hơn vàng nuôi nấng cuộc đời ta

  và:

Gạo nuôi người, lúa như đời bà ngoại

Mẹ sinh con, gạo nuôi dưỡng ước mơ

Tác giả thấu hiểu nỗi vất vả của người trồng lúa: “Thóc và lúa bắt đầu từ dảnh mạ/ Bão tố đời người gồng gánh bờ vai” nên càng thấm thía nỗi đau khi mùa vụ thất bát: “”Bao nhiêu đứa con, bao lời chan chứa/ Không ghi hết nỗi đau khi hạt thóc mất mùa”. Giờ đây, khi đã đủ ăn thì một bi kịch khác lại diễn ra - ấy là khi mẹ không còn nữa:

Thế là con đã mồ côi

Chỉ còn hạt gạo đầy nồi...ca dao

Quê ơi bên gốc đa cao

Vẫn còn nguyên vẹn gió lào ngày xưa

Hai câu kết như tôn cao tứ thơ lên một tầng nấc mới:

Hạt thóc gội nắng tắm mưa

Làm tôi nhớ mẹ cày bừa nên quê.

Đó là nỗi nhớ mẹ gắn với lời ru của mẹ đến nỗi dù “Con đã đi qua cả trăm núi ngàn khe” vẫn muốn “trở về nghe lời ru của mẹ”, vì chỉ nhờ có thế, tác giả mới “được trở về tuổi thơ” và coi đó là “hạnh ngộ” của đời mình trong “Tìm lại lời ru”. Đề tài mẹ gắn với lời ru như được bay lên trong “Bài thơ cánh võng”. Bài thơ được khai mở bởi bốn câu thơ đáng nhớ:

Mẹ mắc câu thơ lên hai đầu cánh võng

Lời hát ru ngấm thương nhớ vào con

Thành hành trang  cho con muôn thuở

Tiếng ru đêm trao vốn liếng làm người.

Và kết lại ở bốn câu như là dư ba chưa dứt và như một lời truyền lại cho thế hệ mai sau: 

 

Lời ru gom cả trời xanh

Mặt trời ngoan, ngủ ngon lành đêm đêm

Mai này con nhớ đừng quên

Bài thơ cành võng bên thềm...à ơi!  

Trong  tập thơ này, nỗi nhớ mẹ và nỗi xa vắng mẹ còn trở đi trở lại với Nguyễn Vũ Quỳnh nhiều lần. Nỗi đau mất mẹ khiến Nguyễn Vũ Quỳnh cay đắng nhận thấy rằng: “Về nhà vắng mẹ bơ vơ cả chiều” (“Về nhà”) và đau đớn nhận ra rằng: “Bây giờ con đã mồ côi/ Mẹ không còn, mất thật rồi ngày xưa”. Nói không quá thì mẹ và hình tượng mẹ là “hiện thực trung tâm” của “Bài ca cánh võng”, thể hiện cái tậm, cái tình sâu đậm ngỡ không thể sâu đậm thêm nữa của Nguyễn Vũ Quỳnh.

Chiến tranh đã lùi xa. Mọi phản ánh về chiến tranh cũng dần dà khác trước và có nhiều thay đổi. Nếu như trước kia (sau 1972), chỉ với “Vòng trắng” (“Có mất mát nào lớn bằng cái chết/ Khăn tang, vòng tròn như một số không”) của Phạm Tiến Duật và “Sẹo đất” (“Tưởng trên da thịt mình mới sẹo/ Ai ngờ đất cũng sẹo như người”) của Ngô Văn Phú, mới có cái nhìn manh nha về thảm khốc và hậu quả của chiến tranh đem lại mà đã bị cấm đoán, thì từ thập kỳ 90 của thế kỷ XX bằng “Khắc vào Trường Sơn”, Nguyễn Vũ Quỳnh khắc họa một bà mẹ nhìn chiến tranh, cụ thể là nhìn đứa con và kẻ thù con mình đã nằm lại chiến trường bằng một cái tâm không phân biệt:

Mẹ đi vào giấc thiên thu

Ru mày! Thương cả kẻ thù năm nao

Đọc những câu thơ này, tôi không thể không liên hệ đến một lời thoại trong một vở kịch của B. Brecht: “Khi cuộc chiến đi qua/ Chỉ có các bà mẹ là thất bại”. Từ góc nhìn khách quan, dù ở phía bên này, hay phía bên kia, mất mát nào cũng là mất mát (“thất bại”) của những người mẹ. Đây là một bài thơ lạ, mang cái nhìn nhân bản về chiến tranh rất khác biệt của Nguyễn Vũ Quỳnh. Nó mới ở cách nói và ở cả cách nghĩ của một người đã đi qua trận mạc.

Đó là nỗi nhớ em, nỗi nhớ tình yêu xưa và ngày xưa, cũng dai dẳng không kém. Nó cứ dập dờn hiện lên bởi chăng đó là những kỷ niệm đẹp trong những cuộc tình ông đã trãi qua:

Đây là ví dụ thứ nhất trong “Cất đêm”: “Giấu chiều vào lòng núi/ Dịu mát trời đam mê/ Em cất đêm vào ngực/ Gọi tình yêu hiện về”. Đây là ví dụ thứ hai trong “Bến chiều”: “Không biết em có bồn chồn/ Riêng anh vẫn giữ một hồn cốt quê”. Đây là ví dụ thứ ba trong “Em là thời gian của anh”: “Lận vào không gian xanh mãi ước mơ/ Em đổi màu thời gian trong anh”. Đây là ví dụ thứ tư trong “Hồi hộp”: “Người ngày ấy đã mấy mươi năm/ Giờ gặp lại qua bao mùa con gái/ Tình vẫn vậy dù mấy lần hoa trái/ Con tim xưa hồi hộp đến bây giờ”.

Trong nỗi nhớ đồng đội, Nguyễn Vũ Quỳnh nhớ đến những nữ thanh niên xung phong mà Trường Sơn là “Nơi cất giữ một thời con gái” của họ. Ông cũng không quên tri ân họ bằng những câu thơ chân thành mà nhân văn, chất chứa những cảm xúc sâu lắng và ngưỡng mộ:

Các chị làm nên dáng vóc, hình hài

Thì vị một thời mở đường đi cứu nước

Cống hiến tuổi thanh xuân cho Tổ quốc

Hương thơm đầu đời dâng hiến Trường Sơn.

Đó là vẻ đẹp trong sáng của tình yêu lứa đôi một thuở. Đó là sự gặp nhau đầu đời, một đi không trở lại. Dẫu chỉ là “những khoảnh khắc toàn hoa/ chẳng bao giờ kết quả”, nhưng em vẫn có một vị trí quan trọng trong anh, có thể làm “thay đổi màu thời gian trong anh”. Vẻ đẹp của tình yêu vĩnh cửu ấy như còn lưu giữ dài lâu đến mức: “Con tim xưa hồi hộp đến bây giờ”.

Thơ trong “Bài ca cánh võng” có những câu thật hay. Có nhiều câu đáng được đánh dấu khuyên vào đó: “Ta thắp mình lên tìm hình bóng quê nhà”. (Mẹ để câu ca dao nơi phía dây gầu) “Hoa cúc không của riêng ai cả/ Mà màu vàng vẫn như ám ảnh ta” (Khúc giao mùa). ”Xô lệch hoàng hôn trôi xa bến đợi/ Bây giờ về vắng hết cả ngày xưa” (Vắng hết cả ngày xưa). Thơ viết về những dòng sông cũng có nhiều câu đáng nhớ: “Tôi đi qua nhiều lắm những dòng sông/ Nhưng chưa sông nào nhớ hơn sông Mã/ Tôi mang sông đi khắp phương trời xa lạ/ Mới hiểu chẳng nơi đâu thánh thiện tự quê mình” (Sông Mã quê ơi!) “Hương nước sông Lam kỳ diệu lắm/ Giặt sáng tắm chiều, mai vẫn còn thơm” (Tự tình với sông Lam). Cái chất tình tứ sâu lắng trong từng câu thơ cứ ngân nga mãi trong thâm tâm người đọc nhiều khi trở nên day dứt khó quên.

Chắc hẳn phải là người Xứ Thanh từ trong cội rễ, Nguyễn Vũ Quỳnh, ông mới có sự sẻ chia lớn lao với Hồ Quý Ly (1336 - 1407) - vị hoàng đế đầu tiên  của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam, ông vua có nhiều cải cách trong bài“Qua thành nhà Hồ”:

Đất trời một cõi tiên - rồng

Bây giờ ruộng lúa nơi ông xây thành

Bảy năm giấc mộng tan tành

Nỗi đau Đại Việt đâu dành riêng ai?

Nỗi niềm nhà Hồ, còn theo Nguyễn Vũ Quỳnh đến tận hôm nay:

Nay còn cổng đá xây tường

Thành nhà Hồ! Một đoạn trường xót xa!

Tác phẩm “Bài thơ cánh võng” là sự hồi quang ký ức mang theo kỷ niệm đẹp về quá khứ trong một mạch thơ ngẫm cảm nối dài. Hồi quang kí ức đẹp đã lan tỏa sự minh triết ngôn ngữ từng vần thơ để lại cho hôm nay và mai sau trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh. Đó là phần cốt lõi và nền tảng của thơ ông. Đó cũng là những vần thơ giàu chất chiêm nghiệm và máu thịt của riêng ông.

Xin trân trọng giới thiệu tác phẩmmới “Bài thơ cánh võng” của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh cùng bạn đoc.

 Phố Khuất Duy Tiến đêm 13 tháng 4 năm 2025

Đ.H.G

   

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm