TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh

“Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-06 08:35:55
mail facebook google pos stwis
575 lượt xem

Bài thơ “Ấm lòng những nụ hôn như thế” của Phạm Đình Phú không chỉ chan chứa yêu thương đời thường mà còn thấm đẫm tinh thần bi tráng của những nụ hôn tiễn biệt trong chiến tranh. Với cảm nhận tinh tế và giàu cảm xúc, nhà thơ Võ Đức Kỳ dẫn người đọc đi từ ngọn lửa yêu thương trong gia đình đến ngọn nguồn hy sinh vì Tổ quốc – nơi mỗi nụ hôn trở thành biểu tượng của sự sống, tình người và lòng tri ân bất tận. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin chia sẻ cùng bạn đọc bài viết này.


Đại tá, Thầy thuốc ưu tú, Nhà thơ Phạm Đình Phú

 

VÕ ĐỨC KỲ

(Cảm nhận về bài thơ cùng tên trong tập thơ của Phạm Đình Phú – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM)
 

Bài thơ “Ấm lòng những nụ hôn như thế” mang đến một thông điệp kết nối giữa tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi và sự hy sinh trong chiến tranh. Cảm xúc sâu sắc về sức mạnh của nụ hôn – như một biểu tượng của tình yêu bền chặt và sức sống mãnh liệt – đã được khơi dậy. Bài thơ không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc đời thường mà còn khái quát được sự bi hùng và thiêng liêng của cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu, mà còn thấu hiểu những hy sinh thầm lặng của những người con vì non sông đất nước.

Nụ hôn đời thường – ấm áp, thân thương, gần gũi

Phần đầu bài thơ mở ra bằng hình ảnh những nụ hôn của đời sống gia đình – nơi không gian và thời gian thường nhật nhưng chan chứa sự ấm áp và tươi mới:

“Ba mẹ nũng nịu/ ‘Chùn chụt’ lên đôi má con/ Ông bà ‘pầm pập’ trên bàn tay cháu…”

Hình ảnh ngọt ngào này không chỉ gợi nhắc về tình cảm gia đình, mà còn khắc họa sự gắn kết qua từng cử chỉ đơn giản trong mối quan hệ thân thiết. Từ ngữ như “chùn chụt”, “pầm pập” tạo nên những âm thanh riêng biệt của yêu thương đang lan tỏa trong từng câu chữ.

Đây mới chỉ là một phần trong thông điệp của bài thơ. Nụ hôn còn biểu đạt tình cảm, sự gắn bó giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái, ông bà và cháu chắt, tình yêu lứa đôi, và hơn thế, là sự tiếp nối máu thịt – truyền thống của mỗi gia đình.

“Nụ hôn truyền hơi ấm/ Toe toét môi cười tươi xinh kháu khỉnh/ Bi bô lớn nhanh từng ngày/ Vui gì hơn thế nữa!”

Sự phát triển của một đứa trẻ – từ khi lọt lòng đến lúc lớn dần – được ví như nhận về dưỡng chất từ những nụ hôn của yêu thương. Hạnh phúc vô bờ khi chứng kiến con trẻ trưởng thành được khắc họa bằng những hình ảnh sống động như: “Toe toét môi cười tươi xinh kháu khỉnh”. Một nụ hôn nhỏ bé nhưng chất chứa tình yêu bao la và niềm vui thầm lặng của ông bà, cha mẹ dành cho con cháu.

Hình ảnh “Vợ chồng vai kề vai/ Rong ruổi buổi xế chiều” là biểu tượng của một tình yêu bền vững – đầu bạc răng long – được nuôi dưỡng và duy trì từ những nụ hôn giản dị nhưng đầy gắn kết.

“Hâm nóng lại tình yêu/ Tiếc gì nụ hôn mỗi tuần mỗi tháng/ Đồng điệu rạo rực lúc vừng đông hừng sáng/ Chất chứa bao điều chưa nói hết với con tim…”

Từ những cử chỉ âu yếm trong gia đình, bài thơ mở rộng đến chiều sâu của tình yêu đôi lứa. Nụ hôn không chỉ biểu hiện tình yêu, mà còn là nơi cư ngụ của niềm tin, sự đồng điệu, gắn bó hai tâm hồn – giúp họ viên mãn trong đời sống và tràn đầy hạnh phúc.

Nụ hôn trong chiến tranh – thiêng liêng, cao cả

Sau những hình ảnh đời thường ấm áp, bài thơ chuyển sang một bối cảnh hoàn toàn khác: chiến tranh. Nụ hôn trong chiến tranh chất chứa cả đau thương lẫn thiêng liêng. Tác giả không ngần ngại nhắc đến những “nụ hôn chưa kịp trao”, “nụ hôn cuối cùng”, hay “nụ hôn tiễn biệt” – những khoảnh khắc ngắn ngủi, khi sự sống chỉ còn tính bằng giây.

“Nụ hôn cô y tá, cứu thương/ Nữ TNXP nơi chiến trường lửa đạn/ Tặng người chiến sĩ trước phút lâm chung…”

Nụ hôn gấp gáp mà đầy yêu thương, trân trọng và tiếc nuối, là biểu hiện của lòng biết ơn dành cho người sắp hy sinh. Đó cũng là hành động chia sẻ, nâng đỡ tinh thần – một thứ “tạm biệt” không lời, một cử chỉ thiêng liêng cuối cùng giữa những con người cùng chung lý tưởng.

Khoảnh khắc “Tặng riêng người chiến sĩ trước phút lâm chung” mang theo nỗi đau đớn xen lẫn nhân ái, là sự tri ân đối với người đã ngã xuống vì mục tiêu cao cả: “Độc lập – tự do”. Đó là nụ hôn “không cần giấy phép” – không đòi hỏi lý do hay đồng thuận – mà là hành động cứu rỗi tinh thần, là tiếng nói từ trái tim giữa cuộc đời dở dang.

Sự tạm biệt đầy đau xót

Phần cuối bài thơ là một khúc tráng ca bi thương, nói về sự hy sinh cao cả và nỗi tiếc nuối trước những ước mơ chưa kịp thành hình:

“Em ơi rất có thể/ Anh chết giữa chiến trường/ Đôi môi tươi xé đạn/ Chưa bao giờ được hôn…”

Đây là sự kết hợp giữa một nỗi niềm tiên đoán và một khát khao bị bỏ lỡ – khi người chiến sĩ hiểu rằng mình có thể ra đi bất cứ lúc nào, chưa kịp thực hiện điều giản dị nhất của đời người: một nụ hôn yêu dấu.

“Chưa bao giờ được hôn” – không chỉ là thiếu thốn tình cảm cá nhân, mà còn là biểu tượng của những giấc mơ bị dang dở, của sự sống chưa trọn vẹn.

Tóm lại, dù tác giả chưa nói hết, nhưng bài thơ “Ấm lòng những nụ hôn như thế” là một hành trình cảm xúc sâu sắc – từ sự ấm áp nhẹ nhàng trong gia đình và tình yêu lứa đôi, đến những bi kịch đầy đau thương của chiến tranh.

Nụ hôn – trong bài thơ – không chỉ là cử chỉ biểu đạt tình cảm, mà còn là biểu tượng của sự sống, sự hy sinh và gắn kết thiêng liêng.

  • Với tình cảm gia đình, nụ hôn là sự giao hòa giữa các thế hệ.
  • Trong chiến tranh, nụ hôn là lời tiễn biệt thiêng liêng – trước phút chia xa, trước khi hy sinh.

Dù trong hoàn cảnh nào, “những nụ hôn như thế” vẫn là sợi dây kết nối vô hình giữa người với người, là dấu ấn tình yêu thương, là niềm tin vào những điều thiêng liêng và vô cùng trân quý trong cuộc sống.

Cảm ơn bạn đã gửi tặng mình một tập thơ quý giá!

Hà Nội, ngày 29.06.2025
Võ Đức Kỳ
(Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm