TIN TỨC

Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-16 10:31:26
mail facebook google pos stwis
333 lượt xem

NGUYỄN THANH MỪNG
(Đọc tập thơ “Hai vệt nắng chiều”, NXB Hội Nhà văn)

Cầm trên tay tập thơ mới của nhà thơ Xuân Trường “Hai vệt nắng chiều” (NXB Hội Nhà văn), tôi cứ bần thần về câu ca dao non cao biển rộng: “Ra đi thì sự đã liều/ Mưa mai chẳng quản, nắng chiều cũng cam”. Câu ca ấy, thiên lý lắm, diệu vợi lắm, và nó đặc biệt hun hút ở khúc ruột miền Trung, nơi hơn bảy thế kỷ trước là dặm ngàn Ô Lý trong bước vu quy của Huyền Trân công chúa, và sau đó là những thế kỷ khốc liệt, trong mỗi hạt lúa củ khoai, ngoài trầm tích của nắng lửa mưa dầu là bóng dáng những cung kiếm binh đao. Sự khốc liệt ấy như định mệnh của một vùng đất, ít nhiều len lỏi trong mỗi số phận con người, ở Xuân Trường càng rõ nét hơn, trong sự mẫn cảm của đời sống ngang dọc, và bao quát hơn, trong bi hùng của thế hệ anh. Quê hương Xuân Trường ở bên sông Vu Gia và ngoài ra, anh có những dấu chân tuổi thơ, tuổi trẻ duyên hải cao nguyên lang bạt kỳ hồ. Đọc câu thơ tưởng chừng giản dị: “Cám ơn mỳ Quảng hương vị còn ấm đến cuối tô”, tôi nửa đùa nửa thật với anh, cái sợi mì Quảng trong văn hóa lịch sử trung đại, nó vấn vít mênh mang lắm, thuở vua Lê mở cõi, địa danh “Quảng Nam thừa tuyên” kéo dài từ Hải Vân đến cả Nam Cù Mông và còn ngược lên Tây An Khê. Cái sự thơm ngon ấm áp mà anh diễn tả, nó vừa hiện thực với nhà thơ trong cơn mưa chiều cụ thể, nó vừa chứa đựng những trầm tích đất đai sông núi, triều đại, thời cuộc, nó vừa ăm ắp kỷ niệm “tôi đã ăn vụng tuổi thơ mình mà mùi thơm còn trong da thịt hôm nay!”. Đi dọc hành trình thơ Xuân Trường, ta bắt gặp rất nhiều vùng đất, chênh chao tao loạn, sum vầy tụ họp, nhưng những trong trẻo của ban mai, của tuổi thơ như ẩn nấp đâu đó lại hiện về “chấp nhận những niềm vui/ mà trời đất cho ta trong chặng cuối”. Tuổi thơ từ “Chợt con cá niên quẫy đuôi vào thơ”, đến “Nơi dế trĩu cành dâu khi nước lụt xâm xấp/ tháng mười trắng đồng Mỹ Hảo”, đến sự lầm tưởng nghi ngờ của cô bạn học qua hòn đá vu vơ ném trúng vai: “Oan và đau đã làm thành nỗi nhớ em!”. Khi cô bạn quay lại, tưởng anh là thủ phạm vì nụ cười của anh, do đó nụ cười từ nỗi oan đã biến thành niềm thơ day dứt. Nhà thơ vẫn giữ nụ cười ấy, tươi tắn đến nhức nhối, trong trẻo đến dại khờ, không thể mờ phai dù thời gian kéo dài từ tóc xanh đến tóc bạc, và nó thật dễ thương như cội rễ của ký ức, bản lai diện mục của thơ vậy! Trong dâu bể của cuộc đời, khi “nhan sắc sang sông”, có dịp gặp lại người cũ, anh may mắn được nàng “phúc thẩm” vụ án oan tuổi thơ, tình yêu đầu đời, bằng mấy từ “thật thà như rứa” rất nôm na nhưng quá chừng thần thánh! Nhà thơ dù sao cũng may mắn “trắng án” nhưng bánh xe cuộc đời đã quay bằng những quy luật riêng của nó, để lại chàng bên đường câu thơ tuyệt diệu: “Mà đổi thay có thay đổi bao giờ!”.

Bên cạnh xứ Quảng quê hương với những mặn ngọt chua cay đắp bồi trong trí tưởng, trong tình cảm, bước chân cuộc đời Xuân Trường xê dịch nhiều nơi, trong đó có những miền đất đáng nhớ như Quy Nhơn: “Nón vẫn trắng sân trường mưa con gái”; Tây Nguyên: “Gió ngang mùa khẽ gọi/ Thuở hồng hoang quay về/ Tiếng đại ngàn thổn thức/ Ôi nhạc chiều đê mê”… Như những đa tình nhà thơ, yêu hoa và yêu phụ nữ, trên rừng anh thổn thức với dã quỳ: “Em đã vàng sang ta bao nỗi nhớ không tên” , xuống biển anh hào hiệp với đỉnh Kê Gà: “Bồng bềnh em, bồng bềnh tôi/ Nước mây hai đứa một đôi bồng bềnh/ Cánh buồm trở gió chênh vênh/ Chờ em tôi cứ dần quên tuổi mình!”. Nếu nụ cười trong tuổi thơ-tình đầu của Xuân Trường là nụ cười được kết án“thật thà như rứa” thì nụ cười xế chiều của anh, có kín đáo hơn xíu “Chờ em tôi cũng dần quên tuổi mình” thế nào cũng không ngoài nhận định “thật thà như rứa!”. Tôi nhớ Raxun Gamzatop đã viết trong Daghextan của tôidẫn lời minh triết: Người đàn ông chỉ có thể quì trong hai trường hợp: để uống nước nguồn và để hái hoa”. Đặt câu này trong bối cảnh tâm hồn thơ mây trời gió nước của Xuân Trường, rẽ Đông ghé Tây, đi Bắc về Nam, qua Hạ Lào sang Phnông Pênh v.v… đều bắt gặp những khúc xạ lấp lánh, nơi thẳm sâu của người đàn ông biết bao nhiêu vực thẳm đèo cao, truông dài phá rộng, giông sớm bão chiều... Gọi tên thi sĩ Xuân Trường, tôi cảm nhận, với con người ấy, giờ đã ở độ “thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ”, chặng đường dài trong đời sống, tình bạn, tình thơ, rất đáng mến trọng. Cho nên trong thơ anh, bản ngã tâm hồn hiển lộ tung hoành trong khúc chiết, nồng nhiệt trong chân thành, bộc trực trong mặc trầm.

Trước “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường đã cho xuất bản nhiều tập thơ “Chùm thương nhớ” (1999); Tìm xưa (2000); “Không gian em (2005); Nắng trầm tư (2008); “Chiếc cằm nũng đôi” (2013). Những năm gần đây, anh đoạt nhiều giải thưởng: Giải Nhì viết về ngành cao su; Giải Nhì Thơ Haiku; Giải Tư cuộc thi thơ Nhà văn & Tác phẩm. Bên cạnh thế mạnh là những bài thơ dài, anh lắng lại trong khuôn khổ nghiêm nhặt của haiku, vẫn tạo được đầy nội lực “Mây bay đỉnh núi/ Bìm bịp kêu chiều/ Tiếng mẹ quê xa” (Thơ haiku 1); “Núi ngậm mặt trời/ Nhả ra hoàng hôn/ Vòng quay luân hồi” (Thơ haiku 2). Hơn 60 bài thơ trong “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường chia thành ba phần: Dấu chân ngày cũ, Miền xưa thương nhớ  Ngang chiều mây trắng. Nhưng đọc thơ anh, tôi vượt qua kết cấu chỉn chu mực thước ấy, để chú ý hơn vào hai bài thơ giữa tập: Yêu và Chiều xuân uống rượu một mình. Anh đã nói rất thật (và cũng rất ảo diệu): “Thôi chúng mình hãy vượt qua ngôn ngữ để yêu nhau/ biểu hiện thấu cảm bằng những gì rất thực/ bằng mắt môi- bằng va chạm châu thân/ bằng chết điếng vào nhau/ những miếng cắn thiên thần/ bằng mất hút xác ve sau ân ái/ bằng bập bùng tâm thức đến muôn sau/ một hành trình như vậy ta yêu nhau”. Con người bộc trực đến bạo liệt ấy, cũng là con người mặc trầm đến tĩnh tại: “Rót chiều đầy một ly xuân/ Nâng lên-tôi lại-ngập ngừng-mời tôi/Ngụm buồn-dâu bể đắng môi/ Ngụm vui- nắng giấu bên trời trốn mây/ Trở mình mùa hẹn gì đây/ Mà nghe gió cứ thổi ngày qua mai/ Xôn xao sợi tóc ngắn dài/ Hỏi nhau đen-trắng xuân phai bao lần/ Xuân trời quay lại thanh tân/ Xuân lòng đi mãi, rồi bâng khuâng chiều/ Tôi hỏi tôi đã bao điều/ Trả lời -một ngụm- thật nhiều có không”.

Lật câu ca dao thời mở cõi, tách riêng hai cụm từ "mưa mai" và "nắng chiều", nhận ra trong mưa mai có nắng chiều, trong nắng chiều không thiếu mưa mai, khí chất những cuộc dấn thân, trong mạch lạc chứa đựng mơ màng, trong chon von hàm ẩn thăng bằng, trong tuổi già dung lượng trẻ trung. Hình như còn nhiều điều để khám phá trong thơ Xuân Trường, ở thời đoạn mà anh từng tự nhận “bình minh và hoàng hôn chất vấn nhau”.

N.T.M

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm