- Lý luận - Phê bình
- Cảm thức thời gian hiện sinh trong thơ Nguyễn Văn Mạnh
Cảm thức thời gian hiện sinh trong thơ Nguyễn Văn Mạnh
"Cảm thức thời gian hiện sinh trong thơ Nguyễn Văn Mạnh" là một bài viết công phu, có chiều sâu của PGS.TS Hồ Thế Hà. Dựa trên hai tập thơ Miền hoa phượng và Dấu thời gian, tác giả đã khám phá một cách hệ thống thế giới thi ca của Nguyễn Văn Mạnh – một hồn thơ gắn liền với nỗi niềm ly hương, thao thức về quê nhà, lịch sử, tình yêu và thân phận con người trong dòng thời gian không ngừng biến động.
Bài viết không chỉ khắc họa hình ảnh một cây bút đậm chất nhân văn và hiện sinh, mà còn góp phần gợi mở một cách tiếp cận mới đối với thơ ca Việt Nam hiện đại từ góc nhìn mỹ học và triết lý sống sâu sắc. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin trân trọng giới thiệu bài viết này tới độc giả.
PGS-TS HỒ THẾ HÀ
Nguyễn Văn Mạnh là nhà thơ của nỗi niềm ly hương, sầu xứ trên suốt hành trình tâm linh và hoài vãng của chính người thơ. Hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm trạng hoà quyện vào nhau để thành cảm thức hiện sinh trong từng hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ và cảm xúc thơ. Qua đó, nhà thơ phản ánh những trạng thái vui buồn, âu lo, bất ổn và hy vọng của mình trước dòng đời và dòng thời gian luôn thao thiết chảy về phía trước, bỏ lại phía sau những không gian hoài niệm đến nhức buốt và nặng sâu ân nghĩa. Từ tập thơ đầu tay Miền hoa phượng (Văn học, 2022) đến tập thơ Dấu thời gian (Hội Nhà văn, 2023), cảm thức thời gian hiện sinh ấy hiện ra rất cụ thể và đa dạng trên từng sự vật và chứng tích u trầm đủ chứng thực cho tâm hồn yêu quê hương, đất nước và luôn khát vọng về những điều tốt đẹp cho nhân sinh. Tất cả được thể hiện bằng tiếng nói thi ca chân thành, nồng nhiệt. Thơ Nguyễn Văn Mạnh, vì vậy, thuộc về mỹ cảm của cái đẹp, cái cao cả và nhân văn, dễ nội cảm trong lòng người đọc.
Khi cầm bút, Nguyễn Văn Mạnh luôn nghĩ về những gì đồng nghĩa với sự có ích của thơ ca. Nhìn con người và thế giới hiện thực chung quanh, anh luôn đặt mình trong nhiều mối quan hệ bản chất và quan hệ tương tác để biết yêu thương và ứng xử trước nhân tình, thế thái: “Xin đàn chớ ngân những nốt vô tình/ Và bút ơi đừng viết dòng vô nghĩa/ Những ánh mắt trong veo soi vào tôi/ Mà tôi thì quá nhỏ/ Khi lòng dâng bão tố trùng trùng” (Ánh mắt trẻ thơ trên cát vạn chài).
Dù anh không tuyên bố cụ thể về quan niệm sáng tác và chức năng thi ca, nhưng qua tình cảm và câu chữ, người đọc vẫn nhận ra khát vọng và ý hướng của anh khi cầm bút. Với Nguyễn Văn Mạnh, hiện thực cuộc đời luôn “đập vào thơ muôn nghìn lớp sóng” (Chế Lan Viên) đã đem lại cho anh những thức nhận mới lạ để kết thành những câu thơ mang hồn sự sống. Trước đảo Trường Sa, anh đã nghiệm sinh và thể hiện bằng thơ rất bất ngờ về những quan hệ giữa thiên nhiên và người lính đảo đang từng ngày, từng giờ sinh sôi và biếc xanh màu hy vọng nơi trùng khơi bão tố:
Nơi tưởng chừng không có chỗ cho thơ
Núi lại biết cắm xuống lòng biển thẳm
Cây bám giữa cỗi cằn tìm chất sống
Chim vín gió trời, lính tựa vào nhau.
Cơn sốt một người cả đảo biết đau
Nỗi buồn sẵn bờ vai để thấm
San hô cháy đỏ ngời trong bể mặn
Ngọn gió nào không hướng phía bờ Nam?
Nơi trên đầu vẫn một mảnh trời xanh
Đảo đá thức cho giấc mơ Tổ quốc
Nơi người lính đem trụi trần xương thịt
Dựng thành lũy thép giữa trùng khơi
(Một thoáng Trường Sa)
Với cái nhìn hoài niệm và thực chứng về sinh thái thiên nhiên và sinh thái xã hội - tinh thần như thế nên trong thơ Nguyễn Văn Mạnh, cảnh vật và con người luôn hiện lên nhiều ân nghĩa, vẹn nguyên trong ký ức gần và ký ức xa. Ngày thống nhất đất nước, chứng kiến niềm vui vĩ đại của dân tộc, anh liền nhớ đến quê nhà với dáng mẹ mỏi mòn đợi chờ con nơi ngõ vắng: “Bỗng nhớ quê ta, làng Gạo ven sông/ Hoa gạo tháng Ba rụng vào mùa đói/ Dáng gầy guộc nghiêng vào chiều đổ/ Ngõ nhà mẹ đứng đợi con.../ Gánh nợ đời trai con đã trả xong/ Và mẹ ơi con sẽ về với mẹ” (Nghĩ giữa trưa im tiếng súng). Anh sẽ về quê xưa “rũ sạch bùa mê”, “trút lại những phù du” để mở lòng cảm nhận uyên nguyên tình quê, chân quê và hồn quê sau bao năm ly cách:
Trút lại những phù du trả lại tháng năm
Rũ sạch bùa mê
Cởi mảnh hồn ra thau rửa
Mẹ vẫn thắp trái tim đầu ngõ
Cháy không nguôi ngóng gọi ta về.
(Hồn quê)
Trong ngăn cách, nhà thơ nghe được tiếng quê/ giọng quê trong tận cùng âm sắc, qua đó, nhận ra mọi âm vang và tiếng vọng của quá khứ và biết mình dẫu xa xứ, nhưng không dễ xa quê: “Chìm trong mưa nắng đất người tiếng quê vẫn còn âm ỉ cháy
Dẫu có tỏ mờ những âm sắc ngày xưa/ Tôi nghe bằng lòng mình,/Lần tìm lại những tên xóm, tên người, tên đất cũ/ Nhận được một mảnh hồn/ Xa xứ chẳng xa quê” (Tiếng quê). Về lại quê xưa, gặp lại cảnh vật gần gũi, thân thương ngày nào, anh không nguôi thao thức: “Bây giờ trút hết bụi đường/ Về quê nhung nhớ yêu thương tìm về” (Về quê). Nơi đó, có bao người thân và bạn hữu gọi anh về trong hoài niệm bóng mùa qua, có chén rượu, câu thơ và dậu mồng tơi hoá giải mọi vui buồn nhân thế:
Trải qua bến bể nương dâu
lòng nghe tiếng bạn trên đầu sương phơi
Lại về bên dậu mồng tơi
Tiếng lòng xếp chặt một cơi với trầu
Rượu ngang ấm ruột trái bầu
Chén sành dốc cạn cặp câu thơ buồn
Bạn làm câu lục mưa tuôn
Gọi tôi câu bát về nguồn chân quê.
(Bạn quê)
Trong không gian làng quê ấy, anh lại nhớ về không gian trường huyện thuở áo trắng sân trường, nơi có bao kỷ niệm ngọt ngào thời gấm hương, hoa mộng. Thời gian hoài vãng, giờ đây, có dịp đánh thức trong anh những rung cảm ngọt ngào trong rộn rã tiếng ve ran, chói chang màu phượng đỏ:
Ba năm cùng bạn vui đèn sách
Trường huyện mở ra cửa cuộc đời
Một chút yêu thương thời mực tím
Sẽ còn vương vấn mãi trong tôi.
(Nhớ về trường huyện)
Nguyễn Bính ngày xưa cũng nhớ về trường huyện, nhưng cụ thể và nhiều duyên cớ khiến lòng đôi bạn cùng lớp rung cảm, yêu thương: “Học trò trường huyện ngày năm ấy/ Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ/ Những buổi học về không có nón/ Đội đầu chung một lá sen tơ” (Trường huyện). Ở đây, Nguyễn Văn Mạnh cũng nhớ về trường huyện với quan hệ đam luyến ấy, nhưng kín đáo và sâu nặng hơn khi anh gắn kỷ niệm tuổi học trò với đường chân trời rộng mở khi đất nước có chiến tranh, mọi yêu thương lặng thầm thời mực tím cũng đành gác lại để thành kỷ niệm vương vấn mãi suốt hành trình khát khao và dâng hiến. Nhớ về trường huyện, anh hồi nhớ khoảnh khắc gặp cô giáo ngày xưa nơi không gian thân thuộc với khung cảnh học đường thời gian khó: “Bất chợt gặp cô giữa ngõ sâu đơn độc/ Ngọn nến lung linh ngày mất điện giữa hè/ Cô như nến cháy hết mình, cháy hết/ Để lại sân trường thắc thỏm tiếng ve” (Cô giáo dạy toán). Và từ đó, anh nghĩ đến mình, đến bạn bè và mái trường với màu hoa phượng mỗi độ hè về thắp lửa nhớ người xa:
Và chúng tôi bay dưới trời như lá
Ai đã đi xa? thành bại? vui buồn?
Sân trường cũ gió trôi thầm thĩ
Phượng cuối mùa vẫn ủ lửa bâng khuâng.
(Mái trường)
Nhớ quê xưa, nhớ trường cũ, anh càng nhớ về những cảnh vật và không gian hoài niệm gắn bó thuở đầu trần, chân đất, tóc đỏ, da nâu nơi làng quê yêu dấu. Trong anh, bến sông quê vẫn còn đây trong hoài nhớ day dứt gắn với nỗi niềm riêng khó tả: “Vẫn là cái bến ấy thôi/ Mà tôi thấy ruột gan tôi như cào/ Vô tình cánh én cứ chao/ Dòng trôi xanh biếc hoa đào cứ xuân/ Hình như dùng dắng bước chân/ Hình như hơi thở rất gần sau lưng/ Hình như mây rụng lưng chừng/ Mưa bay lất phất ngập ngừng... như ai”. Quá khứ đồng hiện trong hiện tại để anh giật mình trước bến sông xưa, ngày em sang ngang với pháo cưới, rượu nồng, còn anh thì lặng thầm trong chia biệt. Bất chợt, một cảm giác trôi dạt trong tâm hồn chàng trai hiện lên ngỡ ngàng, hoang vắng, tưởng như con nước và ngọn gió chiều cũng thở dài, xao xuyến, rẽ chia:
Giật mình tiếng gió thở dài
Mái chèo mòn vẹt vỗ hoài mặt sông
Ngày em pháo cưới rượu nồng
Thuyền tôi mất bến nên không bến về.
(Qua bến cũ)
Trạng thái cô đơn trong hoài nhớ đã làm cho lòng chàng trai không khỏi ngỡ ngàng, tiếc nuối trước lòng mình và trước thiên nhiên đang nhạt nhòa theo mưa gió: “Cỏ may nở tím triền đê/ Bây chừ rụng xuống câu thề ngày xưa/ Hình như trời cũng bớt mưa/ Ngày thì nhạt nắng đêm thừa một canh/ Hình như cây cũng quên xanh/ Bơ vơ song cửa trăng thanh hao gầy/ Ai làm chớp rạch chân mây/ Để mưa nước mắt rơi đầy lòng nhau” (Bây chừ). Hình tượng chàng trai cũng chính là hình tượng tác giả đang xúc động và phân thân thành cái tôi trữ tình ngôi thứ nhất. Nhịp điệu lục bát của bài thơ chính là nhịp tâm trạng - là tiếng nhạc lòng của tác giả, có khả năng đánh thức mối tình ly tan và nguyện thề xưa cũ.
Tiếp cận toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Văn Mạnh, người đọc nhận ra sự sóng đôi trong cấu trúc tâm lý của chủ thể sáng tạo. Những gì mất đi và trôi vào quên lãng thì lập tức được tác giả gọi về trong tiếc nuối và hy vọng. Vui - buồn, được - mất, hiện tại - quá khứ, hiện thể - khả thể, hiện thực - tâm linh, thất vong - hy vọng… đều được anh đồng hiện trong ý thức và tâm lý tự vệ rất cụ thể và tích cực. Vì vậy, thơ Nguyễn Văn Mạnh phản ánh chân thật hành trình ra đi và hành trình trở về của chính người thơ. Qua đó, anh được giàu có và tin yêu để tiếp tục mộng mơ và an bằng tâm thế trước bao biến đổi và phức tạp của dòng đời và tình người. Như đã tìm hiểu, hành trình ra đi và hành trình trở về trong ý thức thường trực của Nguyễn Văn Mạnh chính là cố hương, nơi chôn nhau cắt rốn,“nơi ta buông neo một mảnh tâm hồn” để anh không thôi khao khát nhớ về. Đó chính là Hải Phòng. Hải Phòng đã là cố hương, kết tinh thành cổ mẫu (archétype) luôn ám ảnh và hiện hữu trong những giấc mơ chập chờn, mộng mị của anh. Nơi đây đã chứng kiến không khí sôi động một thời “đồng đội đi cùng cha gọi mặt trời” vượt qua mọi bão tố hiểm nguy để cùng cánh buồm trở về giao tình yêu và biển cả cho mẹ và em: “Hoa thắp trong em hy vọng đợi anh về”. Bởi vì đã yêu rồi, tình không lo chiến tranh, biển động và bão tố nghìn trùng. Những người mẹ và người yêu đứng trên bờ nhìn khơi xa thấy lửa, biết thuyền về xoá hết nỗi lo âu và chói chang màu hy vọng. Những người đi gọi mặt trời đã vượt qua khói lửa, đạn bom để chiến đấu và chiến thắng:
Nước mắt mẹ sáng ngời ánh lửa
Cho một Hải Phòng
Đi trước về sau
(Miền hoa phượng)
Dùng tiêu đề Miền hoa phượng đặt tên cho tập thơ của mình, hẳn Nguyễn Văn Mạnh đã sống chết với Hải Phòng - thành phố hoa phượng đỏ, nơi anh sinh ra và lớn lên trong đắm say và nặng sâu ân nghĩa, nhắc thức anh luôn nhớ về trong hiện thực và cả trong những giấc mơ vô thức, nhất là trong những năm tháng đất nước chẳng bình yên, nơi quê nhà, có người thân và người yêu đang mong chờ anh trở về vẹn nguyên sau ngày chiến thắng: “Phượng mùa này nở chín những triền đê/ Và tỏa sáng những con đường ra biển lớn”. Trong đổ nát, đau thương, Hải Phòng - miền hoa phượng vẫn ngời lên nhớ thương, tin yêu và hy vọng:Hải Phòng của biết bao đổi thay, thăng trầm trong bể dâu, giông gió vẫn hướng về đường chân trời dào dạt đại dương: “Thành phố của vầng trăng nơi chân trời gọi sóng/ Của tiếng còi tàu khao khát những đại dương/ Hạt muối trắng hơn, mặn nồng hơi thở biển/ Và hoa tươi nở thắm góc đời thường”. Và hiện tại dựng xây càng hồng tươi màu phố mới:
Nơi trái tim của một vùng duyên hải
Hải Phòng lung linh như ngọn hải đăng
Trong mỗi con người hình như đều có lửa
Trời xanh gần hơn khi phố mới lên tầng
(Thành phố bên bờ sóng)
Từ Hải Phòng và miền hoa phượng, nhà thơ mở rộng lòng mình, liên hệ và thao thức về những vấn đề rộng lớn, có liên quan đến quê hương, đất nước và con người cũng như những vấn đề trầm tích và hiển minh của lịch sử, văn hoá. Thông qua đó, nhà thơ muốn làm sống lại những kinh nghiệm lịch sử và giá trị văn hoá trong quá khứ và hiện tại của nhân dân và dân tộc để khẳng định chân lý cũng như những quy luật hằng cửu của chúng. Đó là hành trình ký ức mà tác giả luôn thao thức và chiêm cảm để lịch sử và văn hoá bật lên lượng thông tin tâm hồn và ý nghĩa mới mẻ. Những miền quê, di tích, thắng cảnh trong nước và thế giới mà anh đã đến và chiêm quan đều để lại trong anh những hiểu biết, đánh giá và nghiền ngẫm bổ sung khi liên hệ với thực tại.
Đến Yên Tử trong ngày xuân, anh không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh vật, đất trời đang giao hoà trong không gian và thời gian thiêng liêng, kỳ ảo mà tiếng chuông ngân là tín hiệu đánh thức sự bừng ngộ của lòng người: “Sương như lưới giăng mùng tình tứ/ Ta hóa con nai vướng sợi tơ trời/ Lúng liếng mắt ngập ngừng hơi thở/ Bỗng giật mình, khi tiếng chuông rơi” (Mùa xuân Yên Tử). Cảm quan thiên nhiên trong thơ Nguyễn Văn Mạnh luôn được nhìn ngắm và cắt nghĩa bằng cái nhìn nhân văn, tương hợp với con người và do con người làm chủ, chứ không phải thiên nhiên làm chủ như quan niệm của thơ trung đại:
Đường dựng dốc quanh co hun hút gió
Như sợi dây kéo ta ngược vào mây
Mù Cả chìm giữa ngàn cây
Hoa ban trắng nở như hồn biên ải
Nghìn năm mặc định ở cuối trời.
(Hẹn về Mù Cả)
Đến Thác Bạc hùng vĩ, nhà thơ cũng thống nhất cái nhìn tương hỗ giữa con người và thiên nhiên, cảnh vật như thế để thấy được sự ý thức và cái nhìn sinh thái tích cực của con người: “Dưới gầm trời có biết bao ngọn thác/ Đâu chỉ một mình ngọn thác núi Lư/ Thác Bạc vắt ngang mảnh trời Tây Bắc/ Tự nghìn đời chảy mãi vào thơ” (Bên Thác Bạc). Với xứ Lạng - nơi hội tụ những sinh hoạt nhân sinh đặc biệt đã quyến rũ anh để lòng mình chan hoà cùng tình người, non xanh, nước biếc:
Câu ca xưa rủ anh về ải bắc
Ở cuối trời xa lắc đất Đồng Đăng
Bất chợt... em giữa đỉnh mây Kỳ Cấp
Sương như đùa thấp thoáng cánh mùng giăng
Ở đó, cảnh và người hoà quyện đến tự nhiên và quyến rũ: “Hoàng hôn nhuộm Kỳ Cùng đến tím/ Tóc gió thả hương thắt buộc đến xao lòng/ Người ngọc liếc ánh nhìn bịn rịn/ Nửa nụ cười, nem rượu cũng bằng không”. Cuối cùng, trước cảnh đẹp và người đẹp, nhà thơ không khỏi mạnh dạn ngỏ lời trước mắt cười lúng liếng của cô gái và men rượu bừng thức trong lòng mình:
Đất nước mình có mấy miền gái đẹp
Anh đã đi qua để mua lấy nặng lòng
Lúng liếng muốn nhủ gì trong mắt
Đêm Kỳ Lừa em có hẹn anh không ?
(Chiều xứ Lạng)
Như đã nói, Nguyễn Văn Mạnh là một hồn thơ không tĩnh vật. Anh luôn có cái nhìn vận động và biện chứng để thức nhận về những điều cao hơn, sâu hơn hiện thực; từ đó, anh luôn thao thức về quá khứ và hiện tại bằng tấm lòng nặng sâu của con người hậu thế: “Đất nước, chiếc nôi thơm hồn cốt Tiên Rồng/ Giông tố ngàn năm chưa bao giờ lay chuyển/ Ta là ta!/ Dẫu mưa nguồn chớp biển/ Giọng thơ Thần/ Hào sảng giữa trùng dương” (Tiếng biển xanh). Bên mộ gió Colin, anh liền liên tưởng đến đế nỗi đau tột cùng của 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam đã kiên cường chiến đấu và anh dũng hy sinh để bảo vệ toàn vẹn Gạc Ma - đảo thiêng của Tổ quốc: “Chiều nay bên đảo Cô Lin/ Đứt từng khúc ruột lặng nhìn Gạc Ma/ Một thời bão lửa mưa sa/ Nỗi hờn nợ nước thù nhà còn đây”. Các anh đã thành bất tử trong hoài nhớ và sự biết ơn của nhân dân và đất nước. Những ngôi mộ gió trên bãi cát vàng chính là chứng tích bi hùng nhắc thức và lay động hồn người trong hiện tại:
Các anh đã hóa thành mây
Tan vào biển nước vơi đầy nhớ thương
Hóa thành cột mốc biên cương
Cắm trên đầu sóng kiên cường ngàn năm
Nén nhang mang khói hương trầm
Các anh ơi, các anh nằm nơi đâu
Cát đem trộn nước mắt sầu
Đắp thành mộ gió canh thâu đợi người.
(Bên mộ gió Colin)
Nguyễn Văn Mạnh luôn có cái nhìn xoáy sâu vào hiện tượng, sự vật để phát hiện những tiềm ẩn bên trong; từ đó, đúc rút những điều mới mẻ cho cuộc sống. Đó là cách “Ôn cố tri tân” của anh để nối liền xưa với nay, truyền thống với hiện đại. Đến Kẻ Nú vào tháng Ba, liên hệ thời vua Hùng mở nước và dựng nước, nhà thơ nghĩ về những điều có liên quan đến sự thật và huyền tích về Lạc Long Quân và Âu Cơ để hiểu tận cùng ý nghĩa của hình tượng đồng bào và trăm qủa trứng mà cha ông ta đã hiện thực hoá bằng ước mơ thần thoại để thành tên đất, tên làng sống mãi cùng quá trình dựng nước và giữ nước của nhân dân: “Những huyền tích theo tháng Ba cứ hiện dần lên/ Trăm quả trứng tìm đất lành sinh nở/ Vua cũng như thường dân, cũng lội bùn cấy lúa/ Đất vuông, trời tròn,/ Âm dương giao hòa sinh khí Văn Lang”. Và bao nhiêu tưởng tượng kỳ diệu khác của cha ông đã khẳng định sự tồn sinh bất diệt của dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay:“Còn dân tộc mới còn tất cả/ Có nhân dân Tổ quốc mới sinh tồn”. Và nhà thơ thả hồn theo khói hương trầm mùa xuân Kẻ Nú để mơ ước về những điều vĩnh hằng, cao cả:
Ta thả hồn ta bay theo khói hương trầm
Nếu được ước, xin cho thành hạt lúa
Hòa muôn hạt đang rì rầm dưới trời Kẻ Nú
Tới muôn vạn mái quê truyền nhựa sống vĩnh hằng.
(Tháng ba qua Kẻ Nú)
Còn nhiều những bài thơ về cảnh vật tươi đẹp của thiên nhiên và quê hương, đất nước mà tác gỉa đã chiêm cảm và triết luận rất hay và sâu sắc bằng thơ mà trong giới hạn của một bài viết có tính khái quát này, tôi không thể minh chứng hết. Bạn đọc tiếp nhận toàn bộ Miền hoa phượng và Dấu thời gian của Nguyễn Văn Mạnh sẽ rút ra được những nhận định đồng sáng tạo của mình để làm đầy ý nghĩa cho tác phẩm.
Tôi muốn nói thêm về vẻ đẹp tình yêu trong thơ Nguyễn Văn Mạnh ở cạnh khía trữ tình để hiểu thêm những cung bậc cảm xúc của anh vừa cụ thể vừa khát khao, mộng tưởng. Đêm Khâu Vai, anh không ngần ngại thổ lộ những mê đắm mãnh liệt: “Đã từng đặt nụ hôn lên môi em/ Bằng tình trai nóng hổi/ Và ngủ quên trong hương tóc em/ Với giấc yêu đắm đuối/ Cuộc tình tưởng vùi giũa lãng quên/ Giữa dòng trôi ba mươi năm có lẻ/ Nhưng đêm nay ai đánh thức trái tim/ Bằng mùi hương con gái?” (Đêm Khâu Vai của tôi). Anh được tiếp thêm sức sống và khát vọng tươi xanh khi có em bên đời xôn xao cùng hoa cỏ: “Em như là ngọn gió lành/ Thổi vào năm tháng cho xanh đất trời/ Bốn mùa mưa nắng đầy vơi/ Có em xuân vẫn cùng tôi hành trình”. Từ đó, bao ký ức hiện về gắn với nghĩa tình trải dài theo năm tháng: “Gừng cay, muối mặn đinh ninh/ Đường xa cái nghĩa cái tình thấm sâu/ Qua sông tôi nhớ nhịp cầu/ Qua đồng tôi nhớ sắc màu đất quê”. Tình yêu, tình quê và thiên nhiên, hoa cỏ tương hợp, tương cảm trong mùa xuân đẹp:
Trời cao cánh én say mê
Nàng xụân đã ở cận kề nơi đây
Ngực tôi uống ngọn gió đầy
Yêu từng ngọn cỏ, mầm cây bên đường
(Đến mùa xuân)
Tình yêu trong cái nhìn lãng mạn của Nguyễn Văn Mạnh đã thể hiện cụ thể nội tâm và nỗi nhớ thường trực của chính người thơ khi vắng em trong chiều hò hẹn: “Không em chỉ thấy bao nhiêu gió đùa”. Lỡ hẹn rồi, tình dậy lên như biển động mà cỏ thì cứ hết mình xanh thầm thì cùng cánh chuồn chuồn trong gió:
Ngóng em hết đứng lại ngồi
Ngóng em lòng dạ rối bời cả lên
Nhìn theo cái nón chung chiêng
Trách lòng vững tựa chân kiềng làm chi
Dưới chân cỏ cứ thầm thì
Sỏi kêu lạo xạo lối đi thường ngày
Giật mình tháng bảy heo may
Chuồn chuồn giăng kín cánh bay, bão về
(Lỡ hẹn)
Chỉ có cách là để lòng mình quay về thời trai trẻ “Tìm con mắt ai lúng liếng giếng đình/ Thả vào tim ta nỗi nhớ”, thì mới mong làm sống lại kỷ niệm tình yêu luôn đắm say và ngọt ngào như trái nho tươi: “Kỷ niệm hình như không có tuổi/ Trăm năm vẫn một sắc xanh/ Và em một thời thiếu nữ/ Vẫn trong thương nhớ tim anh” (Trở lại tuổi hai mươi). Phải nói là tình yêu trong thơ Nguyễn Văn Mạnh lãng mạn, thuỷ chung và đa cung bậc, đa sắc thái, có cỏ hoa và thiên nhiên cùng lời thề làm chứng:
Cỏ may nở tím triền đê
Bây chừ rụng xuống câu thề ngày xưa
Hình như trời cũng bớt mưa
Ngày thì nhạt nắng đêm thừa một canh
Hình như cây cũng quên xanh
Bơ vơ song cửa trăng thanh hao gầy
Ai làm chớp rạch chân mây
Để mưa nước mắt rơi đầy lòng nhau.
(Bây chừ)
Còn rất nhiều những câu thơ, khổ thơ và bài thơ nói về tình yêu, về nhân sinh và đời tư - thế sự sâu sắc, giàu nghiệm sinh, triết lý được Nguyễn Văn Mạnh thể hiện bằng kinh nghiệm và sự sống thật của chính mình nên chân thành và chân cảm. Một hồn thơ như thế làm sao mà vắng người yêu quý, cảm thông. Rất tiếc trong bài viết ngắn này, tôi không thể phân tích về bình diện hình thức tác phẩm như ngôn ngữ, giọng điệu, nhạc tính và thể thơ sở trường của anh, nhất là thể lục bát và thể tự do để thấy sự yêu thích và sự làm chủ thể loại một cách tối đa anh - điều mà bất kỳ nhà thơ nào cũng mong đạt được trong qua trình sáng tạo.
***
Qua hai tập thơ Miền hoa phượng và Dấu thời gian, Nguyễn Văn Mạnh đã thành công trong việc chiếm lĩnh và cắt nghĩa hiện thực đời sống một cách cụ thể, sinh động và nhân ái. Thơ anh cân bằng giữa truyền thống và hiện đại, làm chủ và làm giàu thể loại trên cơ sở giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ để tạo nên tính chân thật cho hình tượng thơ và ngôn ngữ thơ. Từ phạm trù thời gian và cảm thức hiện sinh về thời gian, nhà thơ đã làm sống lại ký ức gần và ký ức xa bằng cách tạo sinh nghĩa mới cho từng sự vật và hiện tượng theo tinh thần thể hiện Cái Mới và Cái Khác, phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của người đọc đồng sáng tạo hiện nay. Đó cũng chính là cách làm mới thể loại, thể hiện cái tôi đang tư duy và cái nhìn nghệ thuật mới mẻ của chủ thể sáng tạo. Thơ anh, vì vậy, thuộc mỹ học của cái đẹp và cái có ích, ngày càng được bạn đọc tiếp nhận và đồng cảm.
Vỹ Dạ, Huế, 6/ 2025