TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Bản hùng ca anh “Bộ đội Cụ Hồ”: Đoàn Thanh Phương - người Cộng sản đối chọi với bao gông cùm đế quốc

Bản hùng ca anh “Bộ đội Cụ Hồ”: Đoàn Thanh Phương - người Cộng sản đối chọi với bao gông cùm đế quốc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-05 10:10:56
mail facebook google pos stwis
2042 lượt xem

CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

PHẠM BÁ NHIỄU

Về tỉnh Vĩnh Long nhiều lần, song tôi biết anh Đoàn Thanh Phương trong một lần, được Huyện ủy Trà Ôn mời dự buổi báo cáo chuyên đề Nghị quyết Đại hội VII Tỉnh Đảng bộ Vĩnh Long, khi còn công tác tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long. Lần ấy, sau giờ giải lao Bí thư Huyện ủy Trà Ôn - người chủ trì buổi họp, có mời anh Đoàn Thanh Phương vào uống nước, nói chuyện và giới thiệu là một tù nhân bộ đội, một chiến sĩ Công sản đã đi từ nhà lao Vĩnh Long, nhà tù Cần Thơ, đến nhà tù Phú Quốc, Côn Đảo… mà kẻ địch không hề làm gì nổi trước ý chí của anh.


Anh Đoàn Thanh Phương & thượng sĩ Nhất Nhu - Trần Văn Nhu (ảnh tư liệu nhà tù Phú Quốc).

Biết anh Đoàn Thanh Phương là một chiến sĩ kiên cuờng trong lao tù của Mỹ - ngụy, tôi đã mời anh nhiều lần đến kể chuyện cho các hội nghị báo cáo viên của tuổi trẻ hay của Liên Đoàn lao động tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức, và anh rất vui vẻ nhận lời; anh đã kể bằng chính cuộc đời thật của mình, chính những nhân chứng mà anh từng gặp, qua cả mấy năm tù đày của các nhà tù Mỹ-ngụy Sài Gòn, không thể nào khuất phục được các anh.

Anh Thanh Phương quê tại vùng đất Vĩnh Xuân - Trà Ôn, song lại hoạt động điệp báo nội tỉnh từ rất sớm, từ năm 1960. Lần đó, anh kể, khi anh được cử làm Trưởng trạm y tế xã Vĩnh Xuân (do tổ chức cài cắm để che mắt địch), trong một lần vượt qua các chốt kẻ địch tìm mua thuốc về trạm, anh đã bị chúng ném lựu đạn làm anh ngất đi, rồi bị chúng bắt giam, đày vào nhà lao Vĩnh Long (lúc đó đóng tại P.1 bây giờ). “Đó là ngày 03-6-1966, địch đưa tôi vào nhà lao Vĩnh Long, sau đó ngày 28-5-1967, chúng đưa sang nhà tù Cần Thơ, sau cùng, ngày 28-5-1968, chúng đưa tôi cùng 2000 chiến sĩ ta mà chúng bắt giam, đày ra nhà tù Phú Quốc” - anh nhấn mạnh.

Năm 1998, Hội Văn học Nghệ Thuật tỉnh Vĩnh Long tổ chức gần cả tuần lễ thực tế và sáng tác cho hơn 20 hội viên, các nhà văn, nhà báo, nhà nhiếp ảnh của tỉnh, đi thực tế tại đảo Phú Quốc và Nhà tù Phú Quốc, dầu lúc này Nhà tù Phú Quốc qua bao năm tháng sau ngày giải phóng miền Nam, ít có sự chăm lo, đã bị hao mòn các cơ sở, kể cả các khu từng đối chất, gom nhốt, tra tấn người tù là các chiến sĩ ta. Lần ấy, chúng tôi rất hân hạnh được anh Thanh Phương, cùng đi với đoàn và trong gần cả tuần lễ đó, anh là người duy nhất từng ở tù lâu năm tại Phú Quốc, đã giúp tất cả mọi thành viên hiểu được thế nào là tra tấn ghê gớm tù nhân ta tại Nhà tù Phú Quốc, đối với các chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ, những đảng viên trung kiên của Đảng.

Và cũng lần ấy, anh là người biết rõ nhất nơi ở khu nhà và vườn cây của thuợng sĩ ngụy Sài Gòn Nhất Nhu (Trần Văn Nhu), quê ở Đồng Tháp, từng là đối tượng gan lỳ nhất, hiểm nguy nhất cho mỗi người tù tại Phú Quốc. Bằng các hình thức tra tấn bẽ rang, búng vào bộ hạ người tù... Trưa đó, trời hơi nắng nhẹ gió đảo thổi vào thật êm, trưa đó, khi ngồi trên xe xuống nhà ông Nhất Nhu, tôi chưa thể hiểu ra cách tra tấn kiểu này, mà sao bộ đội ta chịu đựng nổi. Anh Thanh Phương nói gọn lỏn: Vào thì chú biết, nói là tra tấn bằng bẻ răng, tức là dùng chiếc kìm sắt to tướng, tay ông ta cầm và nhằm vào mỗi chiếc răng của người chiến sĩ, mà bẻ từng cái, cho máu mỗi chiến sĩ cứ phun ra… Trong hơn 10 năm liền, tay thượng sĩ Nhất Nhu cứ tra tấn ghê rợn người như thế, song không một tù nhân nào, người chiến sĩ bộ đội ta nào, phải chịu khuất phục, khai báo theo ý đồ của chúng.

Vào đến ngôi nhà thượng sĩ tra tấn tù nhân khét tiếng Nhất Nhu, nằm khuất sau khu vườn cách con đường chính từ Bắc đảo đi Nam đảo vài trăm mét. Kẻ tra tấn tù nhân khét tiếng Nhất Nhu, dáng thấp, người mập, có con mắt như nhằm dò xét với từng người. Anh Thanh Phương, nói cho ông Nhất Nhu: “Anh yên tâm, hôm nay các nhà báo, nhà văn đến để tìm hiểu về các cách đối xử với tù nhân, cho những người chưa từng biết, để trong cách viết của họ, mà được hiểu thêm”.

Tôi biết phải cố gắng, kìm lòng mình quá mức, thì anh Thanh Phương mới nói được với các nhà báo, nhà văn của tỉnh, khi chính mình đã từng bị kẻ ngồi ngay trước mặt đây, đã bẻ 12 lần gãy từng chiếc răng của mình và bao đồng đội khác.

Lần ấy, dù trời giữa nắng trưa, trời xứ đảo có gió mát, song ai cũng toát mồ khi nghe một kẻ tra tấn tù nhân cộng sản nổi tiếng nhất Nhà tù Phú Quốc ngồi nói chuyện bẻ gãy từng chiếc răng của bạn tù anh Thanh Phương. Đến nổi sau khi tra tấn xong, nhiều chiến sĩ đã ngất xỉu tại khu tra tấn, để bạn tù phải ra cõng về khu giam.

Cứ 4 năm dài đằng đẵng, anh Thanh Phương và bao bạn tù là các chiến sĩ bộ đội ta, cứ ngày mỗi ngày được kẻ sát nhân thượng sĩ Nhất Nhu, “cho nếm” dùi cui, nếm những chiếc răng bị bẻ gãy của từng chiến sĩ là tù nhân nhà tù. Máu lạnh tanh trước cái chết con người, đã chớm hết cả con người này, khi ông ta cứ thản nhiên kể cách tra tấn rất ư kiểu Mỹ này, mà không hề có một sự xót thương tình người với người, cùng đồng loại, cùng dân tộc.

Lần ấy, anh hùng Đoàn Thanh Phương nói, chính anh bị kẻ máu lạnh này bẻ gãy răng đến 12 lần, còn cách tra tấn bằng dùi cui, thì không thể nào nhớ hết. Song, các anh vẫn không một ai, khai ra với chúng nữa lời về cơ sở của đơn vị. Dữ nhất là đêm mùng 8 Tết Kỷ Dậu, năm 1969, anh Thanh Phương và 4 bạn tù vượt ngục, tính vượt ngục rồi đi bằng đường biển trở về đất liền, thì bị chúng phát hiện, bắt vào, tra tấn bằng cách vừa nhổ răng anh, vừa rút móng tay, móng chân… những cách tra tấn, mà nay ngồi trước mặt người lính hiền lành như đất, tôi cũng không thể ngờ chúng đã tra tấn một tù nhân chúng ta, theo kiểu còn hơn cả thời trung cổ như thế. Cứ thế, cả 4 lần vượt ngục Phú Quốc của anh và đồng đội, khi bị chúng phát hiện đều được “nếm” đủ mùi tra tấn từ tay kẻ sát nhân thượng sĩ Nhất Nhu, mà chúng tôi được bắt gặp trong lần thực tế Nhà tù Phú Quốc lần đó.

Lửa và máu trong tim anh luôn tin vào Đảng, tin vào cuộc kháng chiến thành công, đã giúp các anh đứng vững. Nợ máu phải trả bằng máu, ngày 21-01-1971, anh Thanh Phương cùng phối hợp 2 chiến sĩ khác đã bắt tên cảnh sát ác ôn Lê Ba phải đền tội. Sau đó, chúng đưa 3 người trong vụ việc này ra trước tòa án binh của chúng tại TP. Cần Thơ, kết án anh Trần Văn Minh (quê Tiền Giang) 15 năm tù, anh Trần Minh Quang 20 năm tù, còn anh thì chúng kết tội tù tử hình và đày đi Côn Đảo từ năm 1971. Cho đến ngày trao trả tù binh, ngày 07-4-1974 tại TP Biên Hòa - Đồng Nai, các anh mới được trao trả.

Hòa bình trở về, anh được đơn vị đón về quê hương Vĩnh Xuân - Trà Ôn, cùng an dưỡng mấy tháng liền mới đủ sức khỏe phục vụ tiếp trong quân đội, khi đó anh là là Chính trị viên đại đội 2, của Tiểu đoàn Tây Đô, thuộc Quân khu 9.

Sau này, sức khỏe giảm đi, anh được đơn vị cho chuyển ngành về làm việc tại Phòng Nông nghiệp huyện Trà Ôn, rồi nghỉ hưu trước tuổi do sức khỏe bị tra tấn trong lao tù giảm sút, từ năm 1979. Năm 1985, vinh dự đến với người chiến sĩ Cộng sản là anh đã được Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang.

Lần về Vĩnh Long gần đây, đến thăm anh tại Phường 4 - TP Vĩnh Long, chúng tôi mới biết, sau khi nghỉ hưu, anh về lại quê nhà, rồi lên TP Vĩnh Long sống cùng với các con. Chúng tôi rất mừng cho anh, đã nuôi dạy các con học hành rất chu đáo. Nay một con trai là Thiếu tá, Chính ủy Trường dạy nghề số 9, Quân khu 9, đang noi gương cha tiếp tục phục vụ trong quân đội, còn 2 con gái anh nay đã là bác sĩ, đang công tác tại tỉnh nhà. Chú Nguyễn Văn Năm, Chi hội phó Chi hội Cựu chiến binh (CCB) Khu phố 4, Phường 4 nói với chúng tôi: “Anh Hai Phương là một CCB rất gương mẫu, khi anh về TP Vĩnh Long, được chính quyền hỗ trợ nền đất và anh tự làm quán bánh bún, để nuôi dưỡng 3 con ăn học thành tài. Mỗi hội viên CCB khu phố chúng tôi đều lấy gương anh, để mà nuôi dạy con cái”.

Chia tay người tù nhân Cộng sản, người 4 lần tổ chức cho anh em bạn tù vượt ngục tại Nhà tù Phú Quốc, chúng tôi cũng cầu chúc cho anh luôn giữ được sức khỏe, để cùng với mỗi bạn tù Phú Quốc khi trở về để cùng sống an lành sau những trận đòn thù trong nhà tù của đế quốc, chia sẻ cùng bà con lối xóm, sống chan hòa trong thanh bình của một TP Vĩnh Lon g- TP Anh hùng, mà xương máu các anh đã từng cống hiến.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Ký ức về bố – Bút ký Vũ Mạnh Định
Pleiku những ngày này mưa dầm dề do ảnh hưởng bão. Mưa trắng xóa cả bầu trời, gió hun hút qua hàng cây phủ kín cả phố núi. Tiếng mưa khiến lòng tôi chùng xuống, ký ức bất chợt ùa về. Mưa như tấm màn xám phủ trùm đất trời, có khi kéo dài cả tháng không dứt. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu nỗi buồn của những cơn mưa, chỉ nhớ nó dai dẳng đến mức sáng hay chiều cũng nhập nhòe một màu xám đục. Nhưng chính sự dầm dề ấy lại trở thành lát cắt đặc biệt của tuổi thơ, để sau này, mỗi lần nghe mưa nơi khác, tôi ngỡ như vừa chạm vào những ngày Pleiku xưa cũ, ngày mưa dài đến mức thời gian như ngưng đọng.
Xem thêm
Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt
Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.
Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm