TIN TỨC

Cảm xúc tháng Tư

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-04-14 08:49:04
mail facebook google pos stwis
1297 lượt xem

TRẦN NGỌC PHƯỢNG

Tôi vào Nam năm 1965, chiến đấu ở chiến trường Long Khánh, Bà Rịa, Biên Hòa, có lần thọc sâu xuống tân Bến Cát, Củ Chi. Hàng đêm ra bìa trảng nhìn về Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn, bồi hồi với câu thơ của Lê Anh Xuân: “Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó / Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về/ Bao giờ bao gìờ Sài Gòn giải phóng? Ôi những phố hè, ôi những hàng me?”.

Cái khoảng cách chim bay mấy chục cây số đó tưởng đã tới được trong Mậu Thân 68. Tôi đi theo đơn vị tiền phương đã xuống tận Thủ Đức. Sau mấy ngày áp sát Sài Gòn, các đơn vị chủ lực của ta bị địch đánh bật ra. Thương vong nhiều vô kể. Sau Mậu Thân, địch tăng cường càn quét. Các cơ sở hậu cần bị bể. Các cửa khẩu bị phong tỏa. Đói ăn nhiều đơn vị phải lên tân biên giới. Đêm đến các đơn vị hậu cần chúng tôi phải đột ấp móc nối cơ sở. Mỗi ký gạo/ cân muối có khi phải đổi sinh mạng. Rồi phải 7 năm sau, trải qua những ngày tháng ác liệt của chiến dịch Nguyễn Huệ 72, những ngày tranh chấp giành đất sau hiệp định Paris, những ngày mưa bom B52 trên cả 2 miền Nam - Bắc, chúng ta mới tiến tới đợt Tổng tiên công, nổi dậy mùa xuân 75 và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Khi phụ trách tổ đài vô tuyến điện theo Ban Chỉ huy Đoàn Hậu cần 814, tôi đã cảm nhận được khí thế khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch. Hàng đêm các xe chở vũ khí tập kết ở Sông Bé và sông Đồng Nai. Trận đánh mở màn ở Xuân Lộc diễn ra rất ác liệt. Địch chống trả quyết liệt và dùng đến cả bom CBU để hủy diệt đối phương. Quân đoàn 4 đứng chân trên mảnh đất miền Đông, sau khi phá tan cánh cửa Xuân Lộc phải đánh bọn địch ngoan cố co cụm cố thủ ở Trảng Bom, sân bay Biên Hòa, cầu Rạch Chiếc. Bao anh em đồng đội đã hy sinh trên đường vào Sài Gòn, xác để lại trên các cánh rừng cao su, dưới các chân cầu Đồng Nai, Rạch Chiếc… Đoàn tôi được lệnh tiếp quản một phần Tổng kho Long Bình, kho vũ khí hậu cần vào loại lớn nhất miền Nam có 14, 15 cổng ra vào, rông 24 cây số vuông. Cơ man nào là xe cộ, vũ khí quấn áo vất bừa bãi trên đường. Mấy hôm sau anh Sao rủ mình đi Sài Gòn. Mình hỏi "Đi bằng gì? " Anh nói xe jip. Mình phân vân: "Ông có biết lái không?" Anh ta trả lời: "Dễ mà, ở quê, mình lái máy cày quen rồi”.


Cảnh Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Thế là đi Sài Gòn. Anh bạn mình lái xe chẳng biết đường sá luật lệ gì cả. May mà dân thương thấy xe bộ đội có cắm lá cờ đỏ nên tận tình chỉ đường.

Mình là dân thành phố mà vào Sài Gòn lần đầu cũng thấy choáng ngợp. Từ phía cầu Văn Thánh đã nhìn thấy ngôi nhà cao 11 tầng ở đương Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ) trên bức tường vẽ ông da đen nhe hàm răng trắng phếu, quảng cáo cho hãng kem Hynos. Đường sá nhà cửa khang trang. Ở trung tâm thành phố, xe cộ tấp nập nhiều nhất là các loại xe Honda, xe lam. Các cô nữ sinh mặc áo dài đeo băng đỏ giữ trật tự đường phố. Người dân hồ hởi ra đường, gặp anh bộ đội nào cũng hỏi thăm quê quán để tìm người quen. Chúng tôi vòng xe qua đường Nguyễn Huệ ngắm nhìn khách san Palace và tòa nhà Ngân hàng Kỹ thương cao 16 tầng, qua chợ Bến Thành thấy hàng hóa phong phú, mua bán thoải mái nhưng chẳng đứa nào trong túi có tiền cả. Khi dừng chân trước công viên Dinh Độc Lập, mấy cô gái mắt xanh môi đỏ la cà đến gần hỏi các anh có đi chơi không? Một cụ già đi qua nhắc khéo: "Các cháu cẩn thận đấy, nếu không biết đường thì già chỉ cho”.

Buổi trưa đưa Phong đến nhà dì ruột theo cái địa chỉ ghi trên mảnh giấy. Nhà ở Quận 3, trên đưường Công Lý. Phải để xe ngoài đường, vào hẻm qua 3,4 cái 'xuyệt' mới tới. Gọi là nhà nhưng thực ra đây chỉ là túp lều lụp xụp với mấy tấm gỗ ván lấn chiếm dòng kênh. Bà ngoại ôm lấy Phong, sờ từ đầu đến đến chân rồi khóc. Dì Phong đang bán hàng rong trong hẻm cũng bỏ chạy về mang theo mấy chai nước ngọt. Dì chỉ vào cậu thanh niên mặt non choẹt đang ngồi khép nép góc nhà. "Em mày đấy, nó bị bắt đi lính năm ngoái, đẩy ra vùng 1 chiến thuật, may mà đào ngũ sống sót trở về".

Bà con hàng xóm kéo sang rất đông, Căn nhà ọp ẹp bên dòng nước hôi đen, Mọi người ngồi chật cứng, chỉ sợ sụp đổ bất cứ lúc nào. Tôi không ngờ giữa Sài Gòn hoa lệ, giữa trung tâm Q1, Q3 lại còn bạt ngàn những khu nhà ổ chuột như vậy. Chúng tôi lấy thùng lương khô 702, có viên tăng lực biếu gia đình và chia cho cho các cháu. Bọn trẻ thích lắm, ríu ra ríu rít với các chú bộ đội.

Ngày đầu tiên vào Sài Gòn là như vậy. Sau này khi có địa chỉ tôi có dịp vào thăm mấy gia đình họ hàng. Bác Dân đã 80 tuổi trông rất phúc hậu. Bác ôm lấy tôi mà khóc. “Ngày trước mẹ con ở với Bác. Nếu Mẹ con không mất, gia đình con ở lại Sài Gòn thì bây giờ có khi con đã trở thành sĩ quan ngụy rồi”.

Bác có con rể là tướng của ta, con trai là tá của ngụy. Cậu tôi dẫn đến thăm bác Chung ở ngôi nhà biệt thự ở phố Hai Bà Trưng. Bác là giám đốc ngân hàng Pháp Á. Trong thâm tâm tôi nghĩ Bác là tư sản mại bản. Có lẽ đoán được ý nghĩ của tôi, cậu tôi giải thích: "Giám đốc cũng là người làm thuê thôi con ạ. Ông chủ người Pháp thấy Bác là người giỏi thuê Bác cai quản cả nhân viên là ngưởi nước ngoài". Bác được Pháp bão lãnh, nhưng không đi xuất cảnh mà ở lại Việt Nam. Bác gái nói với tôi: "Bác mày, ngày trước tuần nào cũng lái ô tô riêng chở cả gia đình đi Cấp nghỉ mát, ăn cơm tiệm, bây giờ đi làm bằng xe đạp, hút thuốc Vàm Cỏ. Mỗi tháng được chia nửa ký đường để uống cafe đen. Khổ mấy ông nói cũng chiu được, nhưng  chỉ buồn vì có mấy cán bộ vào tiếp quản coi thường ông".

Sau năm 1975, tôi được đi phép đợt đầu tiên. Sau một tháng vào, đơn vị có nhiều thay đổi. Các đoàn hậu cần B2 giải thể. Tôi được điều động về Quân khu 7. Anh em hạ sĩ quan nếu không chuyển ngành thì giải quyết phục viên sớm. Nhiều anh em cầm số tiền trợ cấp ít ỏi, chưa kịp được hưởng chính sách chế độ gì đã cho về quê gấp. Tổ đài của tôi tứ tán mỗi người một nơi. Anh em qua tuổi thanh xuân, lại về với bàn tay trắng, với bệnh tật trong người, không nghề ít chữ, bắt đầu vật lộn với cuộc sống mưu sinh mới. Cậu Dè quê Phụng Hiệp lính quay viên ở với đài mình gần 10 năm. Cậu ta công tác chiến đâu rất dũng cảm tích cực. Trong rừng được mình giúp đỡ vào Đảng, dạy cho biết đọc biết viết. Thế rồi: "Sau giải phóng trở về làm dân/ Huân chương Dũng sĩ cất trong hòm/ Không nghề không chữ không chữ không ruộng đất/ Lại đi làm mướn để nuôi thân"). Ba chục năm sau mới gặp lại, trông Dè rất tiều tụy. Gặp đồng đội, cậu ta vẫn vô tư xòe hai bàn tay đen xạm, Dè cười: “Mình vẫn là vô sản/ Có gì đem ra nhậu lai rai". Nay cậu ta đã ra đi trong nghèo khó. Xã hội bấy giờ ai cũng khó khăn như vậy, kêu ca làm chi. Nghèo khó đến mấy cũng chịu đựng được nhưng sợ nhất là con cái bị chất độc da cam ... Biết vậy nhưng làm sao mà tránh được. Thương cho nhiều anh em bạc đầu còn phải đút cơm cho những đứa con tật nguyền.

Càng về già càng nhớ đến nhau. Mỗi năm rơi rụng một ít. Tháng trước anh Hanh người anh thân thiết, ở chung đơn vị thông tin Q5, Công trường 5 từ ngày đầu vào Nam đã từ giã cuộc đởi. Thủ trưởng Hai Phát nói: “Chú bị bệnh tim, không đến đám ma, để anh đi viếng thay cho”, nhưng không đi sao được. Vợ tôi về lấy xe máy chở đi, nhắc lại ngày xưa khi mình nghèo, anh Hanh ở đơn vị kinh tế hậu cần, Mỗi khi đi tàu đánh cá về, anh lại chạy đến nhà cho cá khô, nước mắm.

Anh em Bà Rịa, Long Khánh thường tổ chức họp mặt ở nhà anh Khảm mỗi năm một lần vào dịp 30/4. Nhà anh Khảm có vườn rộng, chị vợ và các con rất hiếu khách. Mấy năm gần đây trên bàn thờ đặt thêm con heo quay. Mình viết bài thơ “Tháng Tư họp mặt” đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân và báo Cựu Chiến Binh thành phố có đoạn:

Tháng Tư về

Gọi nhau họp mặt

Đồng đội ơi

Tóc bạc trắng hết rồi

Có đứa nào năm nay vắng mặt

Có đứa nào phải chống gậy đến không

Hương khói bay

Con heo quay cúng bạn

Chỉ thương nó một thời bom đạn

Ngày ra đi chưa được bữa ăn no

Anh em còn sống thì phải ráng đến để gặp nhau. Cứ tự an ủi mình dù cuộc sống có số phận thế nào, nhưng còn sống đến giờ so với những bạn bè đã mất là may mắn lắm rồi. Đất nước ngày càng thay đổi. Con cháu chúng ta đã trưởng thành bước vào thời đại công nghệ số. Căn nhà lụp xụp của gia đình cậu Phong cũng không còn nữa. Dòng kênh Nhiêu Lộc đã được chỉnh trang sạch đẹp. Khách du lịch có thể ngồi thuyền ngắm cảnh thành phố. Nghị quyết Đảng đặt mục tiêu đến năm 2045, nước mình trở thành nước giàu có, gia nhập nhóm các nước phát triển cao của thế giới. Mừng quá, nhưng anh em mình không biết ai còn sống đế chứng kiến ngày đó.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
ời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm