TIN TỨC

Người lính già cầm trăng đợi chờ vì sợ đêm đi mất

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-27 16:55:08
mail facebook google pos stwis
183 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Người lính già là cách nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu tự nhận ở tuổi 80, khi ông giới thiệu tuyển thơ chắt chiu đời mình với bạn đọc, vào sáng 27/9 tại TP.HCM.


Đại tá - nhà thơ Lê Văn Hiếu tại buổi ra mắt sách sáng 27/9/24 - Ảnh NH.

Người lính già Nguyễn Văn Hiếu mang quân hàm đại tá, nghỉ hưu đã lâu. Ông sinh ra và lớn lên ở vùng bán sơn địa Yên Định, Thanh Hóa. Năm 1965, ông tạm biệt chốn chôn nhau cắt rốn nghèo khó Định Tân để nhập ngũ lúc vừa tròn 20 tuổi: “Đường xa ngàn dặm con đi mãi/ Mái rạ làng quê giục bước chân”.

Khói lửa Trường Sơn không làm Nguyễn Văn Hiếu sợ hãi, mà bồi đắp thêm tâm hồn đa cảm của ông. Khi dân tộc có được hòa bình, ký ức thời bom đạn đã thôi thúc ông làm thơ, như một cách đáp đền nghĩa tình đồng đội, như một cách tri ân may rủi số phận: “Nhớ bạn bè cùng lứa/ Áo lính rợp rừng xa/ Giờ nơi đâu ai biết/ Có về quê thăm nhà?”.

Ngoảnh lại thời trận mạc, nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu có hai câu thơ ấn tượng: “Những người lính gặp nhau/ Như rừng gom thêm lá”. Những chàng trai năm ấy đã hội tụ trong tiếng gọi non sông, hồn nhiên và lặng lẽ dâng hiến thanh xuân cho Tổ quốc. Vì vậy, nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu dành một phần không nhỏ gia tài thi ca của mình để bái vọng đồng đội: “Sương đằm bia mộ đăm đăm/ Khói nhang khắc khoải tháng năm tìm về”.

Trong thơ người lính già, có phút giây im lìm day dứt “Bia trắng dòng tên nhức mắt/ Lòng thành dâng nén tâm hương/ Đất sâu mấy tầng hài cốt/ Chết còn lưu lạc quê hương” và có cả giây phút nôn nao ngậm ngùi: “Uống từ trăng mọc sườn non/ Đến khi trăng lặn khuyết mòn đêm thâu/ Chén này nước mắt chan nhau/ Uống cho đứa ở rừng sâu không về”.

Ở tuổi 80, nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu tự lựa chọn hơn 200 bài thơ chất chứa vui buồn suốt nửa thế kỷ đam mê thi ca, để in thành một tuyển tập, giúp công chúng và đồng nghiệp có được cái nhìn tổng quan về hành trình sáng tạo của ông. Bên cạnh tâm tư người lính già đã ra khỏi chiến tranh với những ám ảnh khôn nguôi, thơ Nguyễn Văn Hiếu có hai mảng lớn, thứ nhất là miền quê thơ ấu, thứ hai là duyên nợ mong manh.

Dù đã định cư và thành đạt ở đô thị phương Nam, đại tá – nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu vẫn tự thú: “Ngồi buồn chợt nhớ làng quê/ Lại như ăn phải bùa mê phố phường”. Chốn cũ không xa về khoảng cách đã được giải quyết bằng phương tiện giao thông hiện đại, nhưng chốn cũ ngày càng xa phía kỷ niệm. Sự khắc nghiệt của thời gian chìm khuất trong sự phôi phai ân tình: “Bởi sông cách trở đôi bờ/ Cho côi cút núi, cho vờ vật lau/ Lang thang một đám mây nhàu/ Thuyền người để bạc nỗi đau gác chèo”, khiến ông thảng thốt: “Người xưa xa lắc nơi đâu/ Để trầu vàng lá, để cau rụng đầy/ Chiều đang nhuộm xuống sông gầy/ Lại vài chiếc lá vèo bay xa dần”.

Con sông ôm ấp cố hương Yên Định từng được truyền tụng “Cầu Chày chó lội đứt đuôi” đã chảy vào thơ Nguyễn Văn Hiếu những dòng hồi tưởng miên man: “Vẫn dòng sông lặng lẽ trôi/ Giấu gì thăm thẳm một thời mộng mơ/ Bên sông một thoáng hẹn hò/ Tháng năm hóa thạch bài thơ đợi chờ”. Ông đi lùi vào dĩ vãng bình yên mà vẫn thấy mong ngóng bất tận: “Ký ức bập bùng kỷ niệm/ Buồn vui thấp thoáng sao mờ/ Dấu xưa ủ vào gương mặt/ Cỏ gà ran ríu ước mơ”.

Thơ Nguyễn Văn Hiếu chú trọng vần điệu và luôn khởi sự suy tư từ những xao xuyến mà ông không thể nào quên lãng. Chất trữ tình xuất hiện trong thơ ông như những thước phim âm bản, mà kẻ ở người đi cứ ngổn ngang: “Cung đường tôi gặp lại em/ Mùi hương bồ kết xanh đầy tóc em/ Em mang màu áo màu cây/ Sớm mai dòng suối xanh đầy bóng em”, cứ bịn rịn: “Anh đứng mơ hồ cho chiều xuống/ Chiều cũng mơ hồ ngơ ngẩn em”, cứ bâng khuâng: “Tiếng đa đa mỏi một vùng đồi trọc/ Em chờ anh con nước cũng hao mùa”.

Hình ảnh tình nhân chấp chới giữa thực và hư “Ta đỡ vầng trăng rơi mà ngỡ mắt em nhìn” làm ông thỉnh thoảng ngơ ngác “Tất bật vì một bông hoa lại không nhận ra em trước mặt” và dằng dặc hối tiếc: “Tôi lầm lỗi để em thành cổ tích/ Em hóa rằm vằng vặc một miền tôi”.

Cho nên, thơ tình Nguyễn Văn Hiếu cảm thông những dang dở: “Hai người một chiếc ô nghiêng/ Chưa xong câu hát mà em đã về/ Dường như đã lỡ câu thề/ Chồn chân vó ngựa bộn bề thung xa” và an ủi những hụt hẫng: “Ghế khuya trống một chỗ ngồi/ Con thuyền mắc cạn đơn côi với mình/ Sao thì tít tắp vòm xanh/ Em thì xa mãi mong manh phận người”.


Bìa tập thơ mới.

Vẻ đẹp thơ tình Nguyễn Văn Hiếu không có chỗ cho trách móc hay oán hận. Ông dùng sự độ lượng để khép lại sự chia biệt: “Anh về mong gặp em thương nhớ/ Em xa. Em mãi mãi xa rồi/ Mình anh tìm đến cây đa cũ/ Chiều xuống buông đầy xác lá rơi”. Và ông dùng sự khoan dung để chấp nhận sự bẽ bàng: “Có áo người ngày trước/ Dùng dằng bao nhớ nhung/ Có mắt người ngày trước/ Còn xôn xao lạ lùng/ Chén rượu lòng thấy chát/ Mềm môi còn thấy cay/ Có bao nhiêu chén rượu/ Mà cuộc tình chưa say”.

Đọc thơ Nguyễn Văn Hiếu, không khó để nhận ra chân dung một con người chân thành và nhạy cảm: “Một cơn mưa ập tới/ Lụt lội miền tâm tư”. Vì vậy, ông có cách riêng để tha thứ cho những trớ trêu hoặc những phản trắc mà bản thân đã nếm chịu: “Có một bông hồng nở/ Đỏ như môi ai chờ/ Có một người rất lạ/ Cứ gặp hoài trong mơ/ Trở gió mặt hồ thu/ Ngọn đèn khuya lay lắt/ Giọt sương nào chạm môi/ Nỗi buồn nào chóng mặt/ Ta sợ đêm đi mất/ Cầm trăng mà đợi chờ”.

Người lính già chỉ bất an với những xáo trộn đe dọa môi trường sống trong lành và bền vững của cộng đồng lương thiện. Ông xót thương trước sự thay đổi khó lường thịnh suy của xóm thôn chộn rộn bài toán kinh tế ích kỷ: “Sân gôn mở rộng ra sườn núi/ Cánh đồng hẹp lại bớt màu xanh/ Trồng cỏ nhiều tiền hơn cấy lúa/ Thợ cày xe máy chạy vòng quanh” và ông xao xác trước sự bấp bênh của những con người thấp cổ bé họng phải gánh lấy thiệt thòi giữa sục sôi danh lợi: “Sông hẹp núi mòn hồ nước cạn/ Ruộng vườn thu lại phố nhà cao/ Không gian cắt xẻ đồng thưa vắng/ Trăng quê cửu vạn ở nơi nào”.

Trải qua con đường dài đồng hành đất nước từ gian lao đến no ấm, đại tá- nhà thơ Nguyễn Văn Hiếu ung dung tự tại: “Ta đi cuối đất cùng trời/ Bây giờ đi lạc vào nơi xế chiều” và ông càng thêm trân trọng cuộc đời trìu mến: “Vừa thoảng qua song cửa/ Gió vội bỏ đi rồi/ Mới chuyện trò với tôi/ Người đã về cõi khác/ Mây buồn trôi ngơ ngác/ Nước mắt nhòe mưa rơi”.

Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam

Bài viết liên quan

Xem thêm
Làng Nủ thân thương
Tác giả Bỉ Hao tên thật là Nguyễn Phúc Bảo Huy sinh năm 2007 (17 tuổi), tại Đăk Lăk. Hiện đang là học sinh Trường Trung học phổ thông Krông Bông. Em viết truyện ngắn, bút ký, tản văn và cả sáng tác thơ. Có thể nói các tác phẩm của em đang được ví như một viên ngọc nhỏ thô sơ còn cần thời gian gọt dũa, mài sáng, nhưng tôi tin rằng, trong thời gian tới, khi ở tuổi trưởng thành, em sẽ tiến bộ nhiều hơn nữa. Văn chương TP.HCM trân trọng giới thiệu tản văn Làng Nủ thân của Bỉ Hao đến với bạn đọc.
Xem thêm
Thơ Văn Liêm và những khao khát biển bờ!
Bài của Nguyễn Văn Hòa về nhà thơ Văn Liêm
Xem thêm
Giao lưu và ra mắt 2 tác phẩm Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa chân dung thơ của nhà thơ Nguyên Hùng
Sáng ngày 02/ 10/ 2024, Hội trường B lầu 2 số 81 Trần Quốc Thảo, Quận 3, TP HCM, nhà thơ Nguyên Hùng đã ra mắt bạn đọc 2 tác phẩm Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa 81 chân dung văn học.
Xem thêm
Ra mắt tuyển thơ của tác giả từng 2 kỳ Nguyên Tiêu có thơ thả lên trời
Hình ảnh: Nguyên Hùng và NVCC – Dựng clip: Nguyên Hùng
Xem thêm
Trao giải Cuộc thi sáng tác Thơ khu vực Đông Nam bộ lần thứ I năm 2024
Sáng 20.9, tại TP Phan Thiết, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Thuận đã long trọng tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Cuộc thi sáng tác Thơ khu vực Đông Nam bộ lần thứ I năm 2024.
Xem thêm
Gặp gỡ và giao lưu cùng 5 tác giả của bộ sách Tiếng Việt giàu đẹp
Sáng ngày 21/9, chương trình “Trò chuyện cùng các tác giả bộ sách tiếng Việt giàu đẹp” diễn ra tại Đường sách TP. HCM đã thu hút đông đảo sự quan tâm của công chúng.
Xem thêm
Thêm một nghĩa cử nghĩa tình cao đẹp
Ngày 4 tháng 9 năm 2024, Chủ tịch UBND TP HCM Phan Văn Mãi đã ký công văn số 5133/ UBND-KT về việc hỗ trợ chăm lo cho thương binh, bệnh binh. Theo đó, thành phố chủ trương hỗ trợ đối với thương binh, bệnh binh với số tiền chăm lo tối thiểu 2 triệu đồng / người / tháng. UBND TP giao cho các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% vốn điều lệ thuộc Thành phố, mỗi đơn vị hỗ trợ tối thiểu 5 trường hợp ( 10 triệu đồng / tháng ) phấn đấu duy trì đến hết năm 2030. Thành phố giao cho các sở Tài chính, Lao động TBXH triển khai ý kiến chỉ đạo này. Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ TP HCM được giao tiếp nhận, quản lý và giải ngân nguồn tài trợ.
Xem thêm
Phóng sự hình ảnh buổi ra mắt sách “Bác sĩ phẫu thuật” của PGS-TS, nhà văn Nguyễn Hoài Nam
Đây là tác phẩm thứ 10 của nhà khoa học, nhà quản lý, nhà văn Nguyễn Hoài Nam, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
Xem thêm
PGS.TS. Ngô Minh Oanh: Anh muốn làm lá biếc
Bài viết của nhà thơ Ngô Đức Hành
Xem thêm