TIN TỨC

Ký ức về bố – Bút ký Vũ Mạnh Định

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-24 22:43:11
mail facebook google pos stwis
10 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Pleiku những ngày này mưa dầm dề do ảnh hưởng bão. Mưa trắng xóa cả bầu trời, gió hun hút qua hàng cây phủ kín cả phố núi. Tiếng mưa khiến lòng tôi chùng xuống, ký ức bất chợt ùa về. Mưa như tấm màn xám phủ trùm đất trời, có khi kéo dài cả tháng không dứt. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu nỗi buồn của những cơn mưa, chỉ nhớ nó dai dẳng đến mức sáng hay chiều cũng nhập nhòe một màu xám đục. Nhưng chính sự dầm dề ấy lại trở thành lát cắt đặc biệt của tuổi thơ, để sau này, mỗi lần nghe mưa nơi khác, tôi ngỡ như vừa chạm vào những ngày Pleiku xưa cũ, ngày mưa dài đến mức thời gian như ngưng đọng.

 

Ảnh hai bố con tác giả chụp năm 1980. Ảnh tác giả cung cấp.

 

Mưa trong tôi không chỉ là kỷ niệm tuổi thơ, của mái tôn rỉ sét, con đường đất đỏ trơn trượt hay mùi cà phê nửa chín nửa xanh trong vườn nhà ai đó, mà còn là mưa trong ký ức của bố. Tuổi thơ tôi gắn với những cơn mưa dầm dề bước chân trẻ nhỏ, còn tuổi trẻ của bố lại gắn với mưa nơi chiến trường khốc liệt, nơi sự sống và cái chết chỉ mỏng manh như một làn mưa xối xả. Có lẽ vì thế mà mưa trở thành sợi dây vô hình gắn kết tôi với bố - người đã dâng hiến cả tuổi xuân cho tôi.

Bố tôi là một người lính, ông nhập ngũ và gắn bó với quân đội từ những ngày đất nước còn trong khói lửa. Năm 1979, khi chiến trường Campuchia bước vào những năm tháng khốc liệt nhất, Bố lại khoác ba lô lên đường, làm nghĩa vụ quốc tế. Ở nơi rừng thiêng nước độc, bom mìn rình rập từng bước chân, những người lính Việt Nam như Bố đã sống và chiến đấu trong muôn vàn gian khổ: lạc rừng nhiều ngày liền giữa mưa tầm tã, đêm phục kích đối đầu với quân địch, hay những lúc dìu dắt từng người dân đất bạn thoát khỏi vòng vây tử thần.

Bố thường ngồi bên ấm trà, giọng chậm rãi kể chuyện, mắt xa xăm. Với ông, đó chỉ là những câu chuyện bình thường của một thế hệ, nhưng với tôi, mỗi lời kể lại là một trang sử thiêng liêng, là ngọn lửa hun đúc nên niềm tự hào và sự ngưỡng mộ. Ngồi nhìn mưa, tôi lại nghĩ đến những cơn mưa trong ký ức của bố - cơn mưa dữ dội, nặng nề, gắn với sinh tử và lý tưởng. Chính từ trong mưa và gian khó ấy, thế hệ của bố đã viết nên một trang sử sáng ngời. Có lẽ bởi vậy, trong từng cơn mưa Tây Nguyên hôm nay, tôi không chỉ nhớ đến bóng dáng của bố, mà còn thấy lòng mình chảy ngược về quê cũ. Quê tôi, nơi có dòng Hoàng Long lặng lẽ chảy qua những triền bãi xanh mướt, nơi những buổi chiều làng ngân vang tiếng chuông chùa và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa. Thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội làng, mùi khói rơm và cả những câu chuyện lịch sử vang vọng từ ngàn xưa.

Tôi lớn lên trong ngôi nhà ngói nhỏ có cái ao xinh xinh trước ngõ. Mỗi buổi chiều đi học về, tôi lại thấy mẹ ngồi ở hiên, đôi mắt dõi ra ngõ như chờ các con. Hình ảnh ấy hiền hòa, ấm áp, trở thành ký ức sâu đậm nhất trong lòng tôi. Bên bờ ao, mấy bông lục bình tím biếc, lũ trẻ chúng tôi thường vớt bèo thả cá, trèo lên cây nhãn bên bờ ao chọc mấy con chim sâu đang tìm ổ. Tiếng cười trong veo hòa cùng tiếng gió đưa qua rặng tre, tạo nên một miền tuổi thơ bình yên đến lạ.

Thần Thiệu - Gia Tân quê tôi nằm trên vùng đất Hoa Lư - Ninh Bình, nơi sinh ra Đinh Bộ Lĩnh - vị vua đầu tiên thống nhất giang sơn. Từ thuở bé, tôi đã nghe bố kể chuyện cờ lau tập trận. Những năm tháng trong quân ngũ đã tôi luyện nên con người ông, kiên định, gan góc nhưng cũng chan chứa yêu thương. Bố không chỉ là điểm tựa của gia đình, mà còn là người thầy lặng lẽ dạy tôi cách sống. Những ngày nhớ bố, lòng tôi nghẹn lại. Trong ký ức, bố hiện lên với dáng người cao lớn, rắn rỏi của một người lính đã đi qua những tháng năm bom đạn, nhưng khi trở về lại là người cha hiền lành, ấm áp. Bố tôi điềm đạm và hiền lành. Bố ít khi nói nhiều, nhưng mỗi lời dặn dò của ông như khắc sâu vào tim tôi. Có lẽ chính sự lặng lẽ nhưng kiên cường ấy đã nuôi dưỡng trong tôi một nguồn sức mạnh. Ông thường bảo: “Người con đất Hoa Lư phải sống kiên cường, phải biết gánh vác trách nhiệm.” Cả cuộc đời tôi, dấu ấn của bố vẫn là ngọn đuốc sáng soi đường…Lời dặn mộc mạc ấy, cùng với dấu ấn quê hương đã trở thành kim chỉ nam để tôi lớn lên, bước vào đời với một niềm tin bền bỉ.

Bố tôi là Trung tá Vũ Mạnh Đoan - nguyên chủ nhiệm thông tin Quân đoàn 3. Bố tham gia quân ngũ từ tháng 5 năm 1971, gắn bó với quân đội từ những năm tháng đất nước còn khói lửa. Người lính trẻ ấy khi ấy mới ngoài đôi mươi, đôi mắt sáng rực niềm tin, khoác trên vai ba lô với tất cả sự nhiệt thành của một thế hệ sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Năm 1976, sau bao tháng ngày xa nhà, Bố được về phép. Chính trong những ngày ngắn ngủi ấy, ông gặp lại mẹ tôi - cô giáo làng dịu dàng, người hàng xóm từ thuở ấu thơ. Cuộc gặp gỡ giản dị nhưng chan chứa tình cảm, như một duyên lành định sẵn. Anh bộ đội trở về trong bộ quân phục xanh màu lá, dáng người cao ráo, nụ cười hiền lành, còn cô giáo trẻ với mái tóc ngang vai, ánh mắt trong veo như sông quê ngày nắng sớm. Tình yêu của họ bắt đầu từ những buổi chiều dạo quanh xóm nhỏ, từ những lá thư viết vội khi Bố trở lại đơn vị, từ những lời hẹn thầm lặng mà sâu nặng nghĩa tình. Cũng trong năm ấy, họ nên duyên vợ chồng. Đám cưới diễn ra giữa làng quê mộc mạc, không nhạc trống linh đình nhưng đầy ắp tiếng cười và lời chúc phúc của họ hàng, bà con lối xóm. Bàn tay anh bộ đội nắm lấy bàn tay cô giáo làng, không hứa hẹn xa hoa, chỉ một lời thề giản dị: “Dẫu mai này còn nhiều gian khó, mình cùng nhau đi hết chặng đường đời.”

Năm 1978, tôi ra đời, đứa con trai đầu lòng, kết tinh của tình yêu giữa người lính và cô giáo trẻ. Mẹ kể, ngày ấy Bố đang ở đơn vị, không kịp về bên cạnh. Nhưng khi nghe tin có con, ánh mắt ông rạng rỡ đến lạ, như thể một chiến công nhỏ bé thiêng liêng đã được tạo dựng. Tôi lớn lên trong vòng tay ấm áp và sự hy sinh lặng lẽ ấy của mẹ. Tháng 7 năm 1979 khi trở về từ chiến trường Biên Giới Tây Nam, đơn vị bố chuyển ra Bắc Thái. Con đường binh nghiệp cuốn bố đi xa, nhưng trong khoảng lặng của những lần chia ly, mẹ mang trong lòng một niềm vui mới.

Khi tôi gần một tuổi, bố lần đầu tiên được về thăm. Chiều cuối đông, gió lạnh len qua mái rạ, mẹ bế tôi đứng trước hiên chờ đợi. Từ xa, bóng dáng một người lính hiện ra, bước đi nhanh mà chùng chình, như sợ đó chỉ là mơ. Bộ quân phục xanh bạc màu, đôi giày sẫm đỏ bụi đường, ánh mắt rực sáng nhưng ngân ngấn lệ. Lần đầu nhìn thấy tôi - đứa con trai mà bấy lâu ông chỉ hình dung qua những dòng thư - bố lặng người. Ông cúi xuống, đôi tay run run ôm trọn tôi vào lòng, vừa ngỡ ngàng vừa xúc động. Giọt mồ hôi, giọt nước mắt nóng hổi thấm lên mái tóc tơ của tôi. Người lính từng đi qua chiến trường khốc liệt, từng chứng kiến sinh tử trong gang tấc, vậy mà khoảnh khắc bế con lại run run như một chàng trai trẻ lần đầu nếm trải niềm hạnh phúc vỡ òa. Bố ghì tôi sát ngực,  thơm lên đôi má tôi, thì thầm: “Con trai của bố…”, câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng tất cả niềm tự hào và thương yêu mà ông đã nén chặt trong suốt những tháng ngày xa cách. Hôm ấy, căn nhà nhỏ rộn rã niềm vui đoàn tụ. Mẹ đứng cạnh, ánh mắt lấp lánh vừa hạnh phúc vừa nghẹn ngào. Tôi không thể nhớ khoảnh khắc ấy, nhưng mỗi lần mẹ kể lại, tôi vẫn thấy như mình được sống trong vòng tay bố một lần nữa, vòng tay vững chãi mà ấm áp, đã chở che và truyền cho tôi một phần sức mạnh đi suốt cuộc đời.

Những ngày phép ấy ngắn ngủi như một giấc mơ. Bố trở về, quấn quýt bên mẹ con tôi không rời nửa bước. Ông bế tôi đi khắp sân, vừa đi vừa khe khẽ hát những câu dân ca mà mẹ vẫn hay ru tôi ngủ. Thỉnh thoảng, ông lại dừng lại, hôn lên mái tóc thơm mùi sữa của tôi, ánh mắt ngời lên niềm hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng. Buổi tối, cả nhà quây quần quanh mâm cơm đạm bạc, chỉ là bát canh rau tập tàng, đĩa cá đồng kho khô, nhưng đối với bố đó là bữa cơm ngon nhất. Ông lắng nghe mẹ kể chuyện làng quê, nghe tôi bi bô tập nói những tiếng papa đầu đời. Trong khoảnh khắc ấy, người lính trẻ dường như quên hết những vất vả nơi chiến trường, để chỉ còn là một người chồng, một người cha bình dị, ấm áp.

Niềm vui đoàn tụ chưa được bao lâu, ngày trở lại đơn vị đã đến. Sáng hôm ấy, trời còn đầy hơi sương, bố lặng lẽ khoác ba lô, chỉnh lại chiếc mũ cối trên đầu. Trước khi bước đi, ông cúi xuống hôn tôi thật lâu như muốn gửi gắm cả phần đời mình vào đứa con trai bé bỏng. Mẹ tôi mắt hoe đỏ, bàn tay nắm chặt vạt áo mà chẳng dám khóc. Bóng dáng bố khuất dần sau con ngõ nhỏ, để lại sau lưng một khoảng trống mênh mông. Bố trở lại đơn vị với trách nhiệm thiêng liêng của người lính, còn chúng tôi ở lại quê hương với tình yêu thương và niềm kiêu hãnh. Mẹ vẫn thường ngồi nơi hiên nhà, ánh mắt dõi về cuối ngõ mỗi buổi chiều như chờ một bóng dáng quen thuộc sẽ trở về sau cơn mưa nặng hạt. Có những đêm, khi gió mùa tràn về, tôi nằm gọn trong vòng tay mẹ, nghe tiếng ru khẽ khàng mà thấy cả căn nhà như ấm lại. Tiếng ru chan chứa nỗi niềm, vừa là tình thương cho con, vừa là lời gửi gắm đến người chồng nơi xa. Bên ngoài, trăng treo lặng lẽ trên mái rạ, còn trong lòng mẹ, niềm tin và sự chờ đợi chưa bao giờ nguội tắt.

Năm 1979, khi tôi vừa biết bi bô tập nói, bố lại lên đường bước vào chiến trường Campuchia khốc liệt. Những năm bố chiến đấu tại đất bạn, mẹ ở lại quê nhà với nỗi nhớ thương dài dằng dặc. Một mình giữa căn nhà nhỏ, mẹ vừa đứng lớp dạy học trò làng, vừa gánh vác việc nhà, vừa chăm sóc tôi - đứa con trai đầu lòng còn thơ dại và lo chu toàn chuyện thảo thơm hiếu kính gia đình nội ngoại.

Sau tôi còn có hai em, một em trai và một đứa em gái bé nhỏ khiến mẹ càng bận rộn. Tôi vẫn nhớ như in những ngày còn bé, khi tôi mới tám tuổi, còn em gái út chỉ vừa lên hai. Mẹ bận việc dạy học và cả việc đồng áng, tôi trở thành “người trông trẻ” bất đắc dĩ, bồng bế em trên tay, chạy quanh sân vừa chơi vừa dỗ dành. Em nhỏ xíu, tóc lơ thơ như tơ mỏng, đôi mắt trong veo cứ nhìn tôi cười khúc khích. Có hôm, ba anh em chạy lon ton khắp sân, vấp ngã rồi lại đứng lên, tiếng cười trong trẻo vang vọng cả một góc vườn. Em gái tôi tên Thương. Bố đặt cho em cái tên “Thu Thương” với tất cả yêu thương gửi gắm. Ông bảo, “Thu” là tên của mẹ, nên bố muốn lấy làm tên lót cho con, như một sự gắn kết, một sự tiếp nối dịu dàng. Mỗi lần gọi tên con, cũng là một lần nhắc nhớ đến tình mẫu tử thiêng liêng. Còn “Thương” là tình yêu thương, sự bao dung và ấm áp mà bố mẹ mong con gái bé nhỏ của mình sẽ mang theo suốt cả cuộc đời. Tôi vẫn nhớ ánh mắt bố lấp lánh khi giải thích ý nghĩa cái tên, nụ cười hiền và giọng nói trầm ấm của ông khiến cái tên “Thu Thương” từ đó mà trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Và rồi, càng lớn lên, em dường như đã sống đúng với cái tên mà bố mẹ đã gửi gắm.

Nhà có hai trai và chỉ có một cô em gái nên tôi thương em nhiều lắm. Em hiền lành, bé bỏng và lúc nào cũng quấn lấy tôi. Sau giờ học, tôi lại giúp mẹ trông em, dỗ em ăn, hay chơi cùng em những trò đơn giản. Tôi nhớ nhất những lần làm ngựa cho em cưỡi. Em níu lấy vai tôi, đôi bàn tay bé xíu run run nhưng ánh mắt thì sáng bừng, như tìm thấy cả niềm vui của thế giới. Mỗi tiếng cười của em là một niềm vui khiến tôi thấy mình bỗng trưởng thành hơn, muốn chở che cho em mãi. Dù chỉ là những trò chơi vụn vặt nơi góc sân đầy nắng, nhưng đó lại là ký ức ấm áp khó phai. Nhìn em khẽ nghiêng đầu gọi “Anh… ơi!”, tôi mới hiểu vì sao bố lại chọn cái tên Thu Thương - vì em chính là niềm thương yêu dịu dàng nhất trong gia đình tôi. Có lẽ chính vì vậy mà từ nhỏ, tôi luôn thấy mình phải lớn hơn tuổi thật, thấy mình như một chỗ dựa bé nhỏ cho em.

Năm 1985, quê tôi trải qua một trận lụt lớn chưa từng có trong lịch sử. Mưa như trút nước nhiều ngày liền, nước từ đầu nguồn đổ về cuồn cuộn, dâng ngập trắng cả đồng ruộng, làng mạc. Trường học nơi mẹ tôi dẫn ba anh em ở tạm bỗng biến thành một ốc đảo nhỏ giữa biển nước. Xung quanh chỉ thấy dòng nước chảy xiết, những mái nhà chìm trong nước, hàng tre nghiêng ngả, từng khúc gỗ, từng bụi rơm rạ theo dòng lũ trôi. Bốn mẹ con bị kẹt lại ở trường, chẳng thể về nhà. Nghe tin quê nhà đang trong cơn lũ dữ, bố tôi tức tốc trở về. Suốt dọc đường, ông đứng ngồi không yên, chỉ sợ vợ con gặp nguy. May mắn lúc ấy, có người chèo đò vượt nước đến tận trường, đưa mẹ con tôi ra ngoài. Con thuyền nhỏ chòng chành giữa dòng nước xoáy, ba anh em tôi ôm chặt lấy mẹ, nín lặng vì sợ hãi. Khi thuyền đưa ra đến con đường đường lớn nơi nước chưa kịp dâng tới, bố đã đứng chờ sẵn. Dáng người gầy nhưng vững vàng trong bão lũ. Giây phút thuyền cập bờ, bố vội vã đưa tay kéo mẹ con tôi lên, ánh mắt ông hiện nỗi lo lắng vừa trút bỏ, xen lẫn mừng rỡ khôn nguôi. Giữa cảnh nước ngập trắng trời, vòng tay bố hôm ấy chính là nơi an toàn nhất. Sau khi thoát khỏi dòng nước dữ, mẹ con tôi được đưa về nhà người quen tá túc. Cả vùng quê chìm trong biển nước, mái nhà tốc ngói, bờ tre gãy đổ, đồng ruộng chỉ còn một màu đục ngầu. Người lớn bì bõm lội vớt từng tấm ván, từng nắm lúa còn sót lại, trẻ con chúng tôi thì ngồi co ro một góc, mắt nhìn xa xăm. Tôi vẫn nhớ rõ vòng tay chắc nịch của bố hôm đón chúng tôi lên bờ, hình ảnh ấy, ánh mắt chan chứa yêu thương ấy trở thành một ký ức không bao giờ phai mờ trong tuổi thơ tôi.

Năm 1988, đơn vị bố chuyển vào đóng quân tại Gia Lai. Để san bớt nỗi nhọc nhằn của mẹ, bố quyết định đưa tôi vào ở cùng bố. Tôi khi ấy đã là cậu bé lên mười, đủ lớn để nhận ra bóng dáng người đàn ông mà mình từng mong ngóng trong những câu chuyện kể và trong ký ức lờ mờ tuổi thơ. Bố trở về, gương mặt rám nắng, đôi mắt đã in hằn những năm tháng gian khổ thao trường, nhưng ánh nhìn vẫn ấm áp và hiền từ. Ngày bố đưa tôi rời quê để vào Gia Lai, tôi vừa háo hức vừa bồn chồn. Trên chuyến xe xuyên dọc miền Trung nắng gió, tôi ngồi bên bố, lần đầu tiên cảm nhận trọn vẹn sự che chở của vòng tay người cha mà bao năm chỉ hiện hữu trong nỗi nhớ. Bố bảo: “Con vào trong này đi học, có bố bên cạnh rồi, yên tâm nhé. Hãy cố gắng thật nhiều để sau này có thể lo cho mẹ và các em.” Giọng bố trầm, chắc, khiến trái tim non nớt của tôi rộn ràng niềm tin tưởng.

Pleiku  những năm 1988 còn hoang sơ lắm, núi đồi bạt ngàn, đất đỏ nhuộm màu áo quần. Nơi ấy mở ra một chương mới của tuổi thơ tôi - vừa lạ lẫm, vừa đầy ắp kỷ niệm. Và quan trọng hơn cả, đó là quãng thời gian tôi được ở bên bố, để tình cha con dần bù đắp những năm tháng xa cách, để tình thương thầm lặng của người lính trở thành ngọn lửa ấm nuôi dưỡng tuổi thơ tôi.

Những ngày đầu ở đây, nỗi nhớ quê hương, nhớ mẹ và hai em của một đứa trẻ mới hơn 10 tuổi đầu ắp đầy. Chiều xuống, khi bóng hoàng hôn nhuộm đỏ rặng núi phía sau doanh trại, lòng tôi lại trào lên nỗi nhớ. Tôi nhớ mẹ! Nhớ dáng mẹ ngồi bên hiên nhà, ánh mắt hiền từ dõi ra ngõ chờ con. Tôi nhớ tiếng cười trong veo của hai đứa em thơ, nhớ cả mùi khói bếp trong sân mỗi buổi chiều đến. Tất cả những điều thân thương ấy dường như ở một thế giới xa xôi mà tôi không thể nào chạm tới. Có lẽ nơi quê hương thân yêu ấy mẹ cũng đang nhớ tôi da diết và chắc hai đứa em đang khóc vì nhớ tôi.

Tôi ở cùng bố và các chú bộ đội trong doanh trại của Quân đoàn 3. Những dãy nhà cấp bốn giản dị, những hàng cây cao che bóng mát, xa xa là bãi tập lúc nào cũng rộn vang tiếng hô rắn rỏi của người lính. Tuổi thơ tôi gắn liền với âm thanh đanh thép ấy, với mùi dầu súng ngai ngái và cả vị khói bếp bập bùng mỗi chiều tối. Các chú bộ đội thương tôi như con út trong nhà. Họ thường nhường cho tôi miếng thịt ngon trong bữa cơm, cho tôi ngồi lên vai khi ra thao trường, hay kể cho tôi nghe những câu chuyện vui để vơi đi nỗi nhớ mẹ, nhớ quê. Đêm xuống, mưa vẫn rả rích ngoài hiên. Tôi nằm cạnh bố, nghe tiếng ông trò chuyện cùng các đồng đội về những năm tháng chiến trường, về sự hy sinh của bao người lính không tên. Trong vòng tay ấm áp của bố, tôi chập chờn ngủ, mang theo giấc mơ về một ngày nào đó mình cũng sẽ lớn lên như bố và các chú. Có những đêm nằm  nghe mưa gõ nhịp trên mái tôn, tôi úp mặt vào ngực bố, nén nỗi nhớ nhà. Bố im lặng, chỉ ôm tôi thật chặt. Tôi biết trong ánh mắt của người lính ấy cũng chất chứa bao nỗi nhớ: nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ vợ,  nhớ hai đứa con bé nhỏ của mình. Nhưng ông không nói nhiều, chỉ để bàn tay ấm áp của mình truyền cho tôi sức mạnh. Có những hôm, tôi ngồi một mình ngoài bậc thềm, lặng lẽ nhìn bầu trời đầy sao và để mặc cho nỗi nhớ dâng lên. Thế nhưng chỉ cần nghe tiếng gọi của các chú bộ đội, hay bắt gặp ánh mắt động viên của bố, tôi lại thấy lòng mình vững vàng hơn. Chính trong những ngày chông chênh và nhớ thương ấy, tôi đã học cách kiên cường, học cách giấu đi nước mắt để đứng vững như một người lính nhỏ giữa doanh trại lớn. Có một buổi tối, mưa vẫn rơi dầm dề, tôi ngồi thẫn thờ, hai mắt đỏ hoe vì nhớ mẹ, nhớ các em. Bố lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh, không hỏi han nhiều lời, ông khẽ đưa tay xoa đầu tôi, rồi kéo tôi ngồi vào lòng. “Con trai của bố phải mạnh mẽ, phải học giỏi để mẹ và các em ở nhà yên tâm,” bố khẽ nói, giọng trầm ấm nhưng cũng nghẹn lại. Lần đầu tiên, tôi thấy đôi mắt của bố ánh lên thứ ánh sáng vừa kiên cường vừa mềm yếu của một người lính đã từng trải nhưng lại không giấu nổi nỗi buồn khi nghĩ về gia đình nhỏ. Để tôi vơi đi nỗi nhớ, hôm sau bố cho tôi theo cùng các chú ra thao trường. Tôi ngồi trên một tảng đá, nhìn những bước chân dứt khoát, nghe tiếng hô khẩu lệnh vang dội giữa núi rừng. Khi ấy, trong tim tôi bỗng dâng lên một niềm tự hào lạ lùng: tôi không chỉ là đứa trẻ xa mẹ, mà tôi đang lớn lên giữa vòng tay của những người lính. Nỗi nhớ vẫn còn đó, nhưng trong ánh mắt bố và trong khí thế của doanh trại, tôi đã học được thế nào là bản lĩnh.

Tôi nhớ những buổi sáng đi học trên con đường đất đỏ. Mùa khô, bụi đỏ tung mù mịt, bám chặt từ chân đến mái tóc, nhuộm đỏ cả khuôn mặt. Mùa mưa, con đường ấy lại biến thành một dải bùn lầy, trơn trượt đến mức mỗi bước đi đều nặng nề, dép lấm bùn dính chặt không nhấc chân lên nổi. Có những hôm mưa tầm tã, áo mưa chẳng đủ che, tôi co ro ôm cặp, nước chảy từ đầu xuống ướt sũng, lạnh buốt. Ngôi trường nhỏ nằm nép mình bên rặng thông, mái ngói xám mờ dưới những trận mưa rả rích không dứt. Lớp học vách gỗ, bàn ghế xiêu vẹo, nhưng tiếng cười của lũ trẻ chúng tôi thì rộn rã khắp sân. Tôi nhanh chóng có những người bạn đầu tiên - những đứa trẻ Gia Lai chân đất, giọng nói lơ lớ nhưng ánh mắt hồn nhiên, ấm áp. Giữa chúng tôi chẳng có khoảng cách nào cả, chỉ có tình bạn trong trẻo như mạch nước ngầm nơi núi rừng. Có hôm tan học, chúng tôi rủ nhau chạy ào ra đồng cỏ, thả diều bay vút lên nền trời xanh thẳm, tiếng hò reo vang vọng cả một khoảng trời. Lúc khác lại tụm năm tụm bảy dưới gốc cây, thì thầm kể chuyện ma, hay mơ mộng về một ngày mai tươi sáng. Sau này lớn lên, mỗi lần gặp lại nhau, chúng tôi vẫn nhắc hoài những kỷ niệm ấy, như một phần ký ức không thể phai mờ.

Năm 1989, cả nhà tôi vào Gia Lai đoàn tụ sau những ngày xa cách. Những ngày đầu ở khu tập thể bộ đội, cuộc sống tuy còn chật chội nhưng ấm áp bởi tiếng cười sum vầy. Chẳng bao lâu sau, bố mẹ dựng được một ngôi nhà riêng. Ngôi nhà nhỏ đơn sơ nhưng bao quanh là khu vườn rộng, xanh mướt cây trái nằm trên đường vào sân bay. Góc vườn có chiếc giếng to, nước trong veo đến mức có thể soi rõ bóng mây trời. Đó là cả một thế giới tuổi thơ của anh em tôi. Những buổi trưa nắng chang chang, thay vì ngủ trưa, tôi cùng hai đứa em lén chạy ra vườn, xách chiếc bì gạo cũ đi cắt rau dền gai cho đàn heo ăn. Tiếng lá rau sột soạt hòa với tiếng cười trong trẻo, tạo nên bản nhạc riêng của tuổi thơ. Thi thoảng gai đâm vào tay đau điếng. Tôi thường nghịch ngợm, cầm một con sâu nhỏ giơ lên dọa, khiến em gái hét toáng rồi chạy trốn, vừa sợ vừa giận mà không dám mách bố mẹ. Cả khu vườn như cũng rộn ràng theo những trò nghịch ngợm ấy của anh em tôi. Có lần, ba anh em tôi rủ nhau đi hái rau, lặn lội ra tận sân bay của bộ đội, nơi mọc đầy những luống rau dại xanh um. Mải mê chạy nhảy, đuổi bắt nhau giữa bãi cỏ đến nỗi quên cả giờ về, để mẹ phải đi tìm. Một hôm, tôi chạy nhảy đẩy em Đạt ngã va vào thành giếng, dập cả cằm, máu chảy ướt đẫm. Nó vừa đau vừa khóc nhưng vẫn ôm khư khư khúc mía rồi nhai ngon lành như sợ người ta dành mất. Tôi và em gái vừa sợ, vừa thương vừa buồn cười. Trong ba anh em, Đạt là cầu nối, vừa là người “đồng minh” trong những trò nghịch ngợm của tôi, vừa là “người hùng nhỏ” che chở cho Thu Thương mỗi khi em khóc. Cái dáng nhỏ nhắn ấy, đôi mắt sáng như nắng mai và nụ cười lém lỉnh của Đạt khiến ngôi nhà lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Cũng có lần tôi nghịch dại, đuổi Thu Thương chạy ngã sấp xuống đất, trầy đầu gối, máu chảy đỏ cả chân. Em khóc nức nở, còn tôi thì sợ xanh mặt, đứng im chẳng dám lại gần. Giờ vết sẹo ấy vẫn còn trên chân em, như một dấu tích của tuổi thơ đầy nghịch ngợm của chúng tôi. Những bữa cơm ngày ấy cũng là một kỷ niệm khó quên. Ba anh em loay hoay nấu cơm bằng củi, khói cay xè mắt, nước mắt chảy ròng mà nồi cơm thì dở sống dở chín. Thế mà bưng ra vẫn chén sạch, thấy vui như vừa làm được một việc lớn.

Nhớ nhất là góc vườn mẹ trồng rau lang xanh mướt, những ngọn mập ú vươn dài. Mỗi chiều, tôi thường sai hai đứa em ra hái rau, còn mình thì quay nước. Tiếng nói ríu rít của anh em tôi hòa vào tiếng gà gọi hoàng hôn, ủ ấm cả căn nhà nhỏ. Bữa cơm chiều giản đơn chỉ có nồi canh rau lang xanh ngắt nhưng chứa chan tình cảm gia đình. Tôi nhớ vườn bắp nếp của mẹ, những hàng bắp thẳng tắp trải dài dưới nắng vàng. Những ngày nghỉ, tôi thường theo mẹ ra vườn, bàn chân trần còn vương sương lạnh, lách qua những tàu lá xanh rộng đến che khuất cả dáng người nhỏ bé. Đến mùa, trái bắp căng tròn, hạt bắp xếp đều thẳng tắp, trắng nõn trong lớp vỏ non mượt. Mẹ bẻ những trái vừa ăn luộc lên, mùi thơm ngọt lịm lan khắp căn bếp. Anh em tôi tranh nhau từng bắp, vừa ăn vừa xuýt xoa vì nóng, vừa cười giòn tan. Những buổi chiều, khi nắng đã tắt sau rặng núi, cả gia đình quây quần bên mâm cơm giản dị. Chỉ là bát canh rau ngót hái ngoài vườn, đĩa cá kho thơm lừng hay bát cà muối giòn rụm vậy mà sao ngon đến lạ thường. Bố thường gắp thêm thức ăn cho mẹ và các con, còn mẹ lại nhường cho chúng tôi và nhìn chúng tôi ăn ngon lành mà ánh mắt ánh lên niềm vui.

Sau nhà tôi là những bãi cỏ đuôi chồn nhuộm tím cả sườn đồi. Ngọn cỏ mềm mại, thon dài, mỗi khi có gió lại dập dờn như những cánh sóng nhỏ. Ngọn cỏ mảnh mai, mềm mại ấy cứ nghiêng mình rập rờn theo từng cơn gió. Vào những buổi sớm mai, khi sương còn đọng trên từng ngọn lá, ánh nắng vừa lên đã biến cả triền đồi thành một biển tím lung linh, mờ ảo như có phép màu. Khi gió thổi, cả bãi cỏ lay động thành từng đợt sóng, tím ngút ngàn, vừa hoang dại vừa dịu dàng đến nao lòng. Tôi thích ngửi mùi hương của cỏ đuôi chồn lắm. Thứ hương ngai ngái, nồng nồng nhưng lại có sức quyến rũ lạ lùng khiến tôi vừa thấy thân quen, vừa thấy như chạm vào một miền ký ức xa xôi nơi quê nhà: mùi hương đồng nội. Rồi khi tháng mười một về, cả Pleiku lại bừng sáng bởi sắc vàng cúc quỳ. Trên những con dốc quanh co ven cầu số 3 đi lên lối lên sân bay, cúc quỳ nở rộ, trải thành từng vạt hoa ngút ngàn. Sắc vàng rực rỡ ấy xua tan cái se sắt của sương lạnh, sưởi ấm bước chân học trò nhỏ. Trong mắt tuổi thơ tôi, cúc quỳ không chỉ là loài hoa dại, mà còn là một mùa vàng của núi rừng, mùa ký ức của Pleiku. Và còn cả sương mù! Sáng sớm, sương mù dày đến mức như ai đó mang cả biển khói trắng úp xuống núi. Từng vạt sương từ triền đồi bò chậm rãi, len lỏi qua mái nhà, trùm kín hàng cây. Có lúc, chỉ cần bước cách nhau vài ba bước chân, người này cũng chẳng còn nhìn rõ mặt người kia, chỉ thấy bóng mờ lay động trong làn khói lạnh. Phố núi khi ấy như hóa thành một thế giới khác vừa huyền ảo, vừa tĩnh lặng  khiến bước chân ai qua cũng chậm lại, nghe rõ nhịp tim mình hòa cùng hơi thở của sương.

          Ngôi nhà nhỏ, chiếc giếng to, khu vườn rộng, tất cả đã trở thành miền ký ức không thể nào quên. Ở nơi ấy, tôi học được tình yêu gia đình, sự gắn bó anh em và cả niềm vui giản dị từ những điều mộc mạc nhất. Giờ nhớ lại, tôi vẫn thấy hạnh phúc lan tỏa trong lòng, như mùi đất đỏ ngai ngái và vị ngọt của những quả chín đầu mùa trong khu vườn bình yên ấy, tôi vẫn thấy hình ảnh ba đứa trẻ năm nào - tôi, Đạt và Thu Thương đang chạy quanh chiếc sân nhỏ đầy nắng, vang lên những tiếng gọi trong veo giữa chiều muộn. Có lẽ đây là một phần ký ức đẹp nhất, ấm áp nhất của tuổi thơ tôi.

Sẽ thật thiếu sót nếu trong những hồi ức về tuổi thơ, về mái ấm của mình mà tôi không nhắc đến mẹ - người giữ ngọn lửa âm thầm sưởi ấm cả gia đình tôi. Mẹ không chỉ là ký ức mà mẹ chính là điểm tựa, là cội nguồn để tôi hiểu thế nào là tình thương, là sự hy sinh lặng lẽ mà vĩ đại. Nhắc về mẹ, trong lòng tôi lại dấy lên biết bao niềm xúc động, bởi mọi yêu thương, mọi sự gắn kết của gia đình tôi đều được khởi nguồn từ nơi mẹ.

Mẹ tôi là người phụ nữ hiền hậu, lớn lên trong một gia đình có truyền thống, nơi ông bà ngoại dù sống ở quê nhưng chưa bao giờ để con cái thiếu thốn đường học hành. Ông ngoại từng là trạm trưởng trạm y tế xã, một người thầy thuốc tận tụy, sống giản dị mà ấm áp, để lại cho mẹ nếp sống biết coi trọng tri thức và tình nghĩa. Từ nền tảng ấy, mẹ thi vào sư phạm, rồi trở thành cô giáo giảng dạy trường cấp III B Gia Viễn. Tôi vẫn hình dung ra dáng vẻ dịu dàng mà tự tin của mẹ thuở còn trẻ, say sưa truyền từng con chữ, gieo ước mơ cho bao thế hệ học trò. Nhưng cuộc đời vốn có những khúc quanh nghiệt ngã. Khi bố lâm bệnh, phải ra Hà Nội chữa trị, mẹ đã gác lại bảng đen phấn trắng để theo bố, chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ. Ban đầu, chỉ là xin nghỉ một thời gian, nhưng rồi mẹ lặng lẽ rời xa lớp học, rời xa công việc mà mẹ yêu thích để dành trọn cuộc đời lo cho gia đình. Nghĩ lại, tôi vừa thấm thía niềm biết ơn, vừa dấy lên một nỗi xót xa. Mẹ đã từ bỏ ước mơ, từ bỏ cơ hội phát triển của chính mình, chỉ để chúng tôi có một mái ấm trọn vẹn. Cuộc đời mẹ giống như một dòng sông lặng lẽ, không ồn ào nhưng bền bỉ chảy qua năm tháng, chở nặng phù sa để bồi đắp cho chúng tôi trưởng thành. Cuộc đời mẹ đã gói ghém hết thảy thanh xuân, ước mơ và sự nghiệp cho mái ấm này. Nếu ngày ấy mẹ không dừng lại, có lẽ hôm nay mẹ đã là một cô giáo nhiều năm cống hiến, được học trò kính trọng, đồng nghiệp yêu quý. Nhưng mẹ đã chọn con đường khác - lặng lẽ đứng phía sau, dồn hết ánh sáng của mình để thắp sáng cho chồng, cho con. Có những tối khuya, tôi thấy mẹ ngồi vá áo bên ngọn đèn dầu leo lét. Ánh sáng mờ hắt lên gương mặt mẹ gầy đi nhiều, nhưng vẫn ánh lên sự kiên cường lạ lùng. Đôi tay mẹ chai sạn, đôi mắt mỏi mờ theo năm tháng, nhưng nụ cười thì chưa bao giờ tắt. Tôi lớn lên giữa sự tảo tần và hi sinh ấy. Mỗi khi nhớ lại, lòng tôi vẫn nhói lên, tôi thương mẹ vô cùng. Sẽ chẳng có ngôn từ nào đủ để nói hết sự lớn lao của một người phụ nữ đã hy sinh cả tuổi xuân, cả ước mơ, chỉ để cho chúng tôi một mái nhà trọn vẹn và ấm áp. Tôi hiểu và càng thấu hiểu thì càng thương, càng nặng lòng hơn. Nợ mẹ không chỉ là công sinh thành dưỡng dục, mà còn là cả một đời hi sinh âm thầm mà mẹ chưa từng đòi hỏi báo đáp. Có lẽ, suốt quãng đời còn lại, điều duy nhất tôi có thể làm là sống sao cho xứng đáng, để mẹ thấy rằng mọi hy sinh của mình chưa bao giờ là vô ích.

Niềm vui đoàn tụ chẳng kéo dài được bao lâu. Năm 1992, bố tôi lâm bệnh nặng. Người lính từng kiên cường trên chiến trường, từng bước qua bao gian khổ, giờ lại phải đối diện với một cuộc chiến khác - cuộc chiến trong chính cơ thể mình. Bố tôi bị bệnh thận. Căn bệnh âm thầm gặm nhấm sức khỏe của ông, khiến người đàn ông từng vạm vỡ, mạnh mẽ giờ đây phải gầy rộc đi trong những cơn đau triền miên. Cả nhà tôi khi ấy như chìm trong một khoảng lặng dài đầy lo lắng. Mẹ gầy đi trông thấy, đôi mắt sâu thẳm luôn ẩn chứa nỗi sợ hãi không dám nói thành lời. Rồi ngày định mệnh ấy đến - bác sĩ bảo bố cần được ghép thận nếu muốn giữ lại sự sống. Ca phẫu thuật này vào thời điểm đó còn rất mới mẻ ở Việt Nam, thậm chí là một trong những ca đầu tiên được thực hiện. Gia đình tôi vừa hy vọng vừa run sợ, bởi mọi thứ đều mạo hiểm và chưa ai dám chắc kết quả sẽ ra sao. Tôi, khi ấy mới chỉ là một chàng trai đang bước vào tuổi lớn, lòng thắt lại khi nhìn người bố vốn khỏe mạnh, rắn rỏi giờ nằm lặng im trên giường bệnh. Hình ảnh ấy như một cú sốc quá lớn, khiến tôi lần đầu hiểu rằng: người tưởng chừng bất khuất, vững như cột trụ của cả gia đình, cũng có lúc yếu đuối đến tận cùng.

Miền Bắc mùa hè 1992 bỏng rát như lửa thiêu, hành lang bệnh viện 108 ngập trong mùi thuốc khử trùng, mùi ẩm lạnh của tường cũ. Căn phòng bệnh vang lên tiếng máy chạy đều đều, hòa cùng mùi thuốc sát trùng ngai ngái. Trên những chiếc giường trắng, bệnh nhân nằm im lặng, cánh tay cắm kim chuyền nối với chiếc máy lọc máu. Khuôn mặt họ hốc hác, làn da tái xanh, đôi mắt trũng sâu vì nhiều đêm mất ngủ. Có người nhắm nghiền, cố gắng nghỉ ngơi trong tiếng máy rì rầm; có người mở mắt nhìn lên trần nhà, ánh nhìn xa xăm như đang gửi gắm một niềm hy vọng mong manh nào đó. Tôi nhớ như in cảm giác ngồi nơi góc hành lang, nhìn cánh cửa phòng phẫu thuật khép chặt, tim đập dồn dập theo từng giây trôi. Đó không chỉ là nỗi lo sợ mất bố mà còn là sự bất lực của một đứa con trai khi thấy mình nhỏ bé trước nỗi đau quá lớn của gia đình. Và may mắn đã mỉm cười. Ca phẫu thuật thành công nhờ tấm lòng cao cả của chú ruột - em trai bố, người đã tình nguyện hiến thận để cứu anh. Tình anh em, tình huyết thống thiêng liêng lúc ấy được gọi tên bằng chính máu thịt của mình. Và càng may mắn hơn khi gia đình tôi gặp được một vị bác sĩ ân đức, hết lòng tận tụy, không chỉ bằng tay nghề y khoa mà còn bằng trái tim nhân hậu. Bố tôi sống thêm những năm tháng sau này chính nhờ tình thương và sự hy sinh ấy.

Năm 1994, cả gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn theo công tác của bố và cũng thuận tiện hơn trong việc điều trị.  Những ngày đầu ở Sài Gòn, tôi vẫn ngỡ rằng nơi đất mới sẽ mang đến cho gia đình một khởi đầu yên ổn, để bố an lòng chữa bệnh, để mẹ vơi bớt gánh nặng, để anh em tôi được lớn lên trong bình yên. Nhưng đời vốn chẳng tròn đầy như ta mong. Bốn năm sau, định mệnh nghiệt ngã đã đến, cướp đi điểm tựa lớn nhất trong cuộc đời tôi. Ngày 16 tháng 6 năm 1998, bố rời xa chúng tôi mãi mãi, ngày mà trái tim tôi tan vỡ, để lại một khoảng trống không gì lấp đầy.

Ngày bố mất, cả không gian như chìm trong màu xám đặc quánh. Khi ấy tôi là sinh viên Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, đang mải mê với những buổi học, những bài tập, nào ngờ buổi sáng ấy lại trở thành niềm tiếc nuối không bao giờ quên trong đời. Sáng hôm đó, bố vẫn dậy sớm, ăn sáng rồi tự lái xe đến bệnh viện chạy thận như bao lần trước. Không ai nghĩ đó sẽ là chuyến đi cuối cùng, không một lời dặn dò, không một ánh mắt để lại cho vợ con.

Sài Gòn những ngày ấy đang giữa mùa mưa. Buổi sáng nắng gắt, trưa lại đổ ào những cơn mưa bất chợt. Khi nghe tin dữ, bầu trời như xám đặc, oi nồng cũng nghẹn lại. Tôi vội vã trở về trong tiếng mưa đập ồ ạp xuống mái nhà, xuống hàng cây trên con đường quen thuộc. Thành phố vốn ồn ào, nhộn nhịp, vậy mà trước mắt tôi chỉ còn một màu xám lạnh lẽo, hòa cùng sự hốt hoảng trong lòng. Đứng bên giường bố, tôi chết lặng. Bố nằm đó, thanh thản mà xa vời, đôi bàn tay từng dìu dắt tôi giờ đã bất động, lạnh buốt. Tôi muốn nói với bố rằng tôi yêu bố nhiều lắm, rằng tôi còn cần bố biết bao, nhưng mọi lời nghẹn lại trong cổ họng. Chỉ còn những giọt nước mắt rơi, thấm vào tay áo, thấm vào nỗi đau không gì có thể xóa nhòa. Trong giây phút ấy, tôi nhận ra mình đã mất đi điểm tựa lớn nhất của đời mình.

Tang lễ diễn ra trong tiếng khóc nấc của mẹ, của anh em tôi và cả những lời chia buồn của người thân, láng giềng. Bốn mẹ con như chới với giữa dòng đời, mất đi bờ vai vững chãi từng che chở. Mẹ lặng lẽ, đôi mắt đỏ hoe nhưng vẫn cố gắng đứng vững để làm chỗ dựa cho anh em tôi. Nỗi đau ấy khắc sâu, trở thành vết hằn không bao giờ phai trong ký ức tuổi trẻ. Căn nhà nhỏ bỗng trống trải lạ thường. Chiếc ghế nơi bố thường ngồi uống trà buổi sáng, đôi dép vẫn còn nơi góc cửa, chiếc xe máy bố vẫn đi dựng nơi góc sân… tất cả đều hiện hữu, chỉ thiếu bóng dáng người. Sự ra đi của bố để lại khoảng trống không gì bù đắp nổi trong tôi. Mỗi bữa cơm chỉ còn bốn mẹ con lặng lẽ ngồi bên nhau, nuốt vội miếng cơm trong nghẹn ngào. Mẹ cố gắng đứng vững để làm chỗ dựa, còn chúng tôi, những đứa con còn quá trẻ, vừa hoang mang vừa sợ hãi khi lần đầu hiểu thế nào là mất đi mãi mãi một người thân yêu. Có những đêm nằm lặng, nỗi nhớ bố trào dâng khiến tôi bật khóc. Tôi khóc vì nhớ giọng nói trầm ấm của bố, nhớ bàn tay chai sạn từng nắm lấy tay tôi khi còn thơ bé, nhớ cả ánh mắt nghiêm nghị mà dịu dàng ông nhìn tôi mỗi khi tôi phạm lỗi. Nỗi nhớ ấy chẳng bao giờ vơi, ngược lại, theo năm tháng càng lắng sâu, càng khiến tim tôi nhói buốt. Những khi cuộc đời đưa tôi vào vòng xoáy mệt mỏi, áp lực vây quanh, tôi chỉ ước một điều giản dị: giá như bố còn sống, để tôi có thể ngồi bên ông, nghe một lời khuyên dù ngắn gọn, hoặc thậm chí chỉ là được than vãn đôi câu như một đứa trẻ. Tôi khao khát cảm giác ấy, cảm giác được bố lắng nghe, được ông khẽ gật đầu hay mỉm cười động viên hoặc vài câu la mắng. Nhưng tất cả giờ chỉ còn là ký ức, là giấc mơ mà tôi chẳng thể chạm tới. Mỗi lần nhớ bố, trong tôi lại dấy lên một khoảng trống vừa thiêng liêng, vừa day dứt. Khoảng trống ấy không ai có thể lấp đầy, nhưng cũng chính nó trở thành động lực để tôi sống mạnh mẽ hơn, đi tiếp con đường mà bố đã từng đi, con đường của sự kiên định, trách nhiệm và yêu thương.

Nỗi nhớ bố trong tôi chưa bao giờ lắng xuống. Mỗi bước đi trên đường đời, tôi đều thấy bóng dáng ông đâu đó - trong ký ức tuổi thơ, trong những lời dạy còn vang vọng và cả trong những lựa chọn mà tôi đã đi qua. Có lẽ cũng bởi thế, khi nhận công tác ở Đức Cơ - một huyện Biên giới của Gia Lai, tôi không chỉ đơn thuần coi đó là một nhiệm vụ nghề nghiệp, mà còn là một hành trình trở lại miền ký ức của bố. Đức Cơ - nơi tôi gắn bó suốt năm năm công tác - là mảnh đất biên cương gần sát với nước bạn Campuchia. Vùng đất ấy không chỉ chất chứa gió Lào khô khốc, những cánh rừng cao su bạt ngàn, những buôn làng Gia rai trầm mặc mà còn thấm đẫm dấu ấn lịch sử của một thời lửa đạn. Chính nơi này, ngày trước bố và đồng đội đã từng đi qua, từng chiến đấu, từng đối mặt với hiểm nguy, từng gửi gắm cả tuổi xuân của mình cho hòa bình Tổ quốc. Mỗi lần đứng ở vùng đất này, tôi như cảm nhận được từng nhịp thở của quá khứ vọng về. Tôi cũng từng là người lính, đó không chỉ là con đường riêng của tôi, mà còn là cách tôi thực hiện ước mơ của bố, tiếp nối tinh thần của những người lính năm nào. Năm tháng công tác đã rèn cho tôi ý chí và bản lĩnh, để trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đặt nhân dân lên trên hết. Khi được giao trọng trách ở đây, tôi mang trong mình tất cả hành trang ấy. Nơi tôi làm việc, có những con đường đất đỏ mà năm xưa đoàn quân giải phóng từng đi qua, có những ngọn đồi, những cánh rừng bạt ngàn âm thầm ôm giữ bao ký ức của một thế hệ. Và mỗi khi cùng đồng nghiệp đón các anh hùng liệt sĩ trở về từ đất bạn, lòng tôi càng bồi hồi như thể đang thay bố hoàn thành một phần tâm nguyện còn dang dở. Đức Cơ đối với tôi không chỉ là nơi công tác, mà còn là nơi neo giữ một mối liên kết thiêng liêng với bố, người lính năm xưa. Bố không còn nữa, nhưng trên mảnh đất biên giới này, tôi vẫn thấy bóng dáng bố hiện diện trong những câu chuyện của đồng đội, trong từng hàng bia mộ liệt sĩ và trong cả sự bình yên mà thế hệ hôm nay đang được hưởng. Nhiều lần, khi cùng đồng nghiệp lo việc đón các anh hùng liệt sĩ, lòng tôi lại bồi hồi tự hỏi: “Không biết trong số những người lính ấy có ai là đồng đội thân thiết, là tri kỷ một thời của bố mình không?”. Câu hỏi ấy không bao giờ có lời đáp, nhưng chính nó khiến tôi thêm thấm thía sự hy sinh to lớn mà thế hệ cha anh đã để lại. Với tôi, mỗi nấm mộ, mỗi hài cốt đưa về là một câu chuyện, là một phần ký ức của lịch sử không bao giờ được phép quên. Tôi luôn cúi đầu biết ơn và tưởng nhớ các anh hùng - những con người đã ngã xuống để thế hệ hôm nay được sống trong hòa bình. Và giữa những khói hương nghi ngút ấy, lòng tôi vẫn thầm gọi: Bố ơi, con tự hào về bố và đồng đội của bố biết bao!” Hôm nọ, khi đón đoàn các bác cựu chiến binh - những người bạn từng vào sinh ra tử của bố về thăm nơi tôi công tác, tôi cảm nhận rất rõ tình đồng đội thiêng liêng, vượt qua cả không gian và thời gian. Trong ánh mắt, nụ cười, trong từng câu chuyện các bác kể, dường như tôi thấy bóng dáng bố đâu đó. Bố không còn nữa, nhưng những năm tháng chiến đấu của bố vẫn hiện hữu qua ký ức đồng đội, qua sự trân trọng mà thế hệ đi sau như tôi luôn khắc ghi.

Cơ chế mới, huyện giải tán, tôi được điều chuyển về thành phố Pleiku công tác. Nuối tiếc nhiều lắm mảnh đất mà có hơn năm năm tôi đã sống, đã thương, nhưng đành ngậm ngùi chia tay. Mỗi con đường, góc phố huyện vốn thân quen giờ bỗng hóa thành kỷ niệm. Tôi thấy mình như một đứa em út còn ngơ ngác, rời miền biên viễn để bước vào phố thị sầm uất, mang trên vai cả một khối công việc nặng nề, những việc dở dang, những khó khăn bao đời lãnh đạo trước tồn đọng chưa kịp giải quyết. Tôi hiểu mình sẽ phải đối diện với áp lực lớn, nhưng bản lĩnh người lính không cho phép tôi chùn bước. Tôi tự nhủ phải kiên cường, phải nỗ lực hết sức để vượt qua và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Những khát khao còn dang dở của ngày xưa, tôi mang theo, quyết tâm thực hiện tiếp tại nơi này.

Công việc cuốn tôi đi, bận rộn đến mức chẳng còn khoảng trống cho những sở thích riêng tư. Có lúc mệt mỏi, tưởng chừng muốn buông, nhưng ý chí người lính lại nâng tôi đứng dậy. Giữa bộn bề ấy, quê hương vẫn là điểm tựa trong lòng. Tôi nhớ ngôi nhà nhỏ với cái ao xinh xinh trước ngõ, nhớ dáng mẹ ngồi trông các con trở về, nhớ những buổi chiều gió thổi rì rào qua hàng tre và tiếng cười lũ trẻ vang trên sân đất đỏ. Những ký ức ấy trở thành nguồn sức mạnh để tôi vững vàng tiến bước. Tôi nhớ quê, thèm được trở về để đứng bên bờ sông lắng nghe tiếng chuông chùa trong một buổi chiều yên ả. Tôi nhớ món mắm tép kho thịt - món ăn giản dị mà mẹ thường nấu mỗi khi nhà có thêm ít thịt ba chỉ và hũ mắm tép thơm nồng mẹ tự làm. Mùi mắm tép lan ra khắp gian bếp, quyện cùng khói lam chiều, khiến cả sân nhà như ấm hơn. Thịt ba chỉ được kho đến khi săn lại, vàng ruộm, mỡ trong veo quyện với mắm tép sánh đặc, dậy mùi thơm nức. Tôi còn nhớ rõ, mỗi khi nghe tiếng mẹ gọi: “Con ơi, cơm chín rồi đó!”, cả ba anh em tôi lại ùa vào mâm cơm nghi ngút khói, chan chút nước kho sệt sệt lên bát cơm trắng, ăn đến đâu thấy vị đậm đà đến đó. Mắm tép kho thịt của mẹ không chỉ là món ăn, mà là hương vị của yêu thương, của những năm tháng cơ cực mà vẫn đầy đủ ấm áp.

Giờ đây, giữa cuộc sống xô bồ, đôi khi bắt gặp mùi mắm tép thoang thoảng đâu đó, lòng tôi lại chợt lặng. Hình ảnh mẹ bên bếp lửa chiều, dáng nhỏ bé giữa làn khói mỏng, như hiện về trong từng ký ức. Hóa ra, quê hương không chỉ nằm ở dòng sông, mái nhà hay con đường cũ mà còn nằm trong mùi mắm tép kho của mẹ, thứ hương vị đã nuôi lớn tuổi thơ tôi và chở che cả những ngày khôn lớn…

Bố tôi đã đi xa, để lại trong tôi một khoảng trống chẳng bao giờ khỏa lấp, nhưng xen giữa nỗi đau ấy là niềm biết ơn sâu sắc. Biết ơn vì tôi đã được làm con của một người lính vĩ đại, giản dị mà cao cả. Biết ơn vì những ký ức tuổi thơ được rèn giũa trong tình yêu thương, trong sự kỷ luật và cả những giọt mồ hôi lặng lẽ của bố. Biết ơn vì trong trái tim tôi, bố không chỉ là người cha, mà còn là người thầy, người bạn, là điểm tựa mà mỗi khi yếu lòng tôi lại ước ao được nghe một lời khuyên, một câu dặn dò.

Và hôm nay, giữa cơn mưa chiều nặng hạt, tôi lại thấy mình như trở về thuở nhỏ  ngồi nép bên hiên nhà, nghe tiếng mưa gõ nhịp trên mái ngói, nghe lòng ngân lên bao tiếng gọi thân thương. Mưa như xóa nhòa ranh giới giữa quá khứ và hiện tại, giữa xa và gần. Tôi biết, bố vẫn ở đây - trong từng nhịp mưa rơi, trong từng hơi thở của đất trời, trong từng bước tôi đi. Ở một nơi nào đó, chắc bố đang mỉm cười, lặng lẽ nghe tôi thủ thỉ: “Bố ơi... Con sẽ không phụ lòng bố đâu.”

V.M.Đ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt
Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.
Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm