- Chân dung & Phỏng vấn
- Nữ sĩ miệt mài sống, viết và truyền lửa…
Nữ sĩ miệt mài sống, viết và truyền lửa…
KIỀU BÍCH HẬU
Năm 2025, trong không khí thiêng liêng của chuỗi hoạt động kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hình ảnh một nữ sĩ gần 80 tuổi, tóc bạc nhưng giọng đọc thơ vẫn đầy nội lực và xúc cảm, đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng hàng trăm cán bộ chiến sĩ. Đó là nhà thơ – cựu nhà giáo Đặng Nguyệt Anh (hiện sinh sống tại Tp. HCM), một trong số rất ít những “cô giáo đi B” hôm nay, vẫn miệt mài sống, viết và truyền lửa.

Đặng Nguyệt Anh – người phụ nữ đặc biệt, từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam giữa thời khói lửa để tìm người chồng đang chiến đấu và đau bệnh. Hành trình ấy không chỉ là một cuộc đi tìm chồng mà còn là một cuộc dấn thân, chứng kiến, trải nghiệm sâu sắc những mất mát, đau thương, và lòng quả cảm của người lính. Những gì bà trải qua đã thấm vào thơ, tạo nên một mạch thi ca giàu cảm xúc, chân thành và mang đậm hơi thở chiến trường.
Bài thơ “Rừng miền Đông và con gái tôi” được chọn đăng trong tập sách “Trường Sơn một thời hoa lửa” là một dấu ấn cho sự gắn bó của bà với những tháng năm kháng chiến. Trong khi đó, bài “Sông Ninh” – từng được phổ nhạc, phát thanh rộng rãi và lan tỏa sâu rộng trong công chúng – tiếp tục được chọn vào tuyển tập “50 năm Tp. Hồ Chí Minh – thơ phổ nhạc”. Mỗi lần bà xuất hiện tại các sự kiện của lực lượng quân đội – từ lễ tưởng niệm, hội nghị kỷ niệm đến các buổi giao lưu văn nghệ – đều nhận được sự chào đón trân trọng và xúc động.
Tiến sĩ – Trung tướng Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Quốc phòng, nguyên tư lệnh Quân đoàn 3, mời bà tới dự kỉ niệm 50 năm thành lập Quân đoàn 3, và mừng chiến thắng Tây nguyên. Buổi giao lưu ấy tràn đầy cảm xúc!
Nói về chiến trường, về người lính, đề tài này rất phong phú trong thơ Đặng Nguyệt Anh. Một đêm mưa rừng, bà xúc động viết:
“Thương từ phía ấy – đạn bom
Cô gái mở đường, mưa có ướt không?
Chiến trường thì rộng mênh mông
Bao nhiêu người lính mưa không có nhà!”          
Bài thơ “Màu áo tôi yêu” viết về tình yêu đối với người lính: “Tôi yêu màu áo lính đã từ lâu/ thuở chập chững miệng còn tập nói/ Cha tôi đã mặc áo xanh bộ đội/Tôi yêu màu áo lính/ của những bạn bè tôi/ họ đã đến nơi góc bể chân trời/ đảo vắng tiền tiêu/ rừng sâu hiểm trở/ có những người hôm nay không còn nữa!…”
Bà đã tự nhủ: “Tôi sẽ yêu mãi mãi màu xanh áo lính/ dù cuộc đời có bao chuyện đổi thay/ trong lòng tôi/ màu xanh ấy không phai!”. Bài thơ được đại tá Nguyễn Quang Thọ, Quân đoàn 3 xin phép photo ra hàng trăm bản để gửi tặng chiến sĩ. Điều đó thể hiện sự yêu mến của chiến sĩ với bài thơ, và sự tin tưởng gửi gắm niềm tin rằng thơ ca có thể tiếp thêm nghị lực và tinh thần chiến đấu.
Không chỉ nổi bật trong chiến tranh, thơ Đặng Nguyệt Anh còn nhận được sự trân trọng của giới học thuật. Phó giáo sư – Tiến sĩ Hồ Thế Hà (Đại học Huế), vừa có bài viết 5 trang đăng trên Tạp chí Sông Hương (số tháng 3-2025), khẳng định: “Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong thời kháng chiến chống Mỹ ác liệt.” Thơ bà không ồn ào, không quá triết lý, mà chân thành, mộc mạc, bền chặt với tình yêu quê hương, đất nước, và niềm tin mãnh liệt vào con người.
Hiện nay, đã nghỉ hưu nhiều năm, bà không ngừng hoạt động xã hội. Mỗi ngày, bà đều tìm cách làm việc thiện: từ việc nhỏ như mua sách ủng hộ bạn văn, góp tiền in tạp chí đang khó khăn, đến chia sẻ ít đồng cho shipper vất vả, tặng vài gói mì tôm cho người quét rác hay giúp đỡ người lang thang cơ nhỡ. Một đồng nghiệp trong giới văn chương từng nói về bà rằng: “Tôi học được từ chị một điều: làm việc thiện mỗi ngày, dù mình chưa giàu, dù mình đang khó, và dù chỉ là một hành động nhỏ bé.”
 
 
Với Đặng Nguyệt Anh, viết thơ không chỉ là đam mê, mà còn là một cách sống – sống để yêu thương, để ghi nhớ, để tiếp lửa, và để tri ân… Những vần thơ như “Chiến trường thì rộng mênh mông/Bao nhiêu người lính mưa không có nhà…” đã trở thành câu hát nằm lòng của nhiều người lính năm xưa. Và nay, giữa những buổi giao lưu với thế hệ trẻ, với các chiến sỹ, bà vẫn tiếp tục sứ mệnh truyền lửa ấy bằng chính những lời thơ không phai màu năm tháng. Gần đây nhất, trong một cuộc giao lưu với bộ đội, bà đã chia sẻ tình cảm yêu thương và đọc những bài thơ về lính. Mọi người thật sự xúc động. Đại tá – nhà thơ Trần Thế Tuyển – nguyên Tổng biên tập Báo Sài Gòn Giải phóng, đã phát biểu: “Chị Hai của chúng em! Chị thực sự tỏa sáng, hôm nay chị đã tiếp lửa cho chúng em…”
Ở tuổi gần 80, bà không chọn nghỉ ngơi, mà vẫn hiện diện đầy lửa và yêu thương – như một nhịp cầu nối giữa quá khứ oai hùng và hiện tại đầy hy vọng. Một cựu nhà giáo đi B – một người mẹ, người vợ, người thơ, người chiến sỹ – giờ đây là “chị Hai” thân thương của biết bao chiến sĩ, là tấm gương về tình yêu nước, nhân hậu và tinh thần dấn thân không ngơi nghỉ.
Chúc bà luôn dồi dào sức khỏe, bình an, hạnh phúc! Tiếp tục đi trên con đường mình đã chọn.
Nguồn: https://www.vanhocvietnam.net/
 
             
 
                   
                   
                   
                  