TIN TỨC

Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-24 14:53:56
mail facebook google pos stwis
62 lượt xem

NGUYÊN HÙNG

Tây Nguyên và miền Trung những ngày cuối tháng 11 năm 2025 như nghẹn lại. Đắk Lắk – Gia Lai – Lâm Đồng trải qua trận lũ lịch sử chưa từng thấy trong nhiều thập niên. Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.


NHỮNG NGƯỜI HÙNG GIỮA DÒNG NƯỚC XIẾT

Khi nước lũ đột ngột dâng cao lúc 2 giờ sáng, nhấn chìm nhiều khu dân cư trong bóng tối và dòng chảy xiết. Lực lượng chức năng chưa thể tiếp cận ngay vì cầu gãy, đường bị chia cắt, nhiều xã bị cô lập. Chính trong khoảng trống nguy hiểm đó, những người dân bình thường đã đứng lên, tự biến mình thành "đội cứu hộ bất đắc dĩ" , nhưng lại là lực lượng đến nhanh nhất và cứu được nhiều người nhất.

Tại Krông Ana, nước lên chỉ trong chưa đầy một giờ. Những người thợ hồ, nông dân, tài xế trong thôn đã kịp thời leo lên mái nhà, cột dây vào người và chia nhau từng chặng dò đường nước lũ. Họ không có áo phao, không có đèn đội đầu, chỉ có đèn pin và dây dù cũ. Nhưng từng người đã lần theo dây, cứu hàng chục hộ dân. Một người kể lại: “Không cứu là họ chết. Lúc đó chẳng ai nghĩ gì nữa”. Câu nói mộc mạc nhưng lay động, không cần phong danh hiệu, họ đã trở thành "người hùng" theo cách lặng lẽ mà lớn lao nhất.

Ở Ea Kao (Đắk Lắk), gia đình anh Phạm Đình Dũng có chiếc xuồng chèo tay duy nhất của xóm. Khi lũ vượt qua đập tràn, nước đổ ào ào, anh Dũng và em trai đã chèo liên tục suốt bảy giờ trong đêm, bơi vào từng mái nhà đưa từng người ra ngoài, từ người già, phụ nữ, trẻ thơ cho đến những người bị kẹt trong kho lúa, chuồng trại. Khi được hỏi: “Có sợ không?”, anh chỉ đáp: “Nghe tiếng người kêu ‘cứu với’, còn gì để sợ nữa”. Trong hoạn nạn, người Việt biết đứng về phía sự sống.

Tại Ia Sao (Gia Lai), khi một cháu bé 3 tuổi bị dòng nước cuốn khỏi nền nhà, đội thanh niên xã đã buộc dây an toàn quanh người, dùng thuyền hơi lao vào vùng nước xiết. Dòng nước xoáy đập bật cả mũ bảo hộ, nhưng họ vẫn cố chèo đến được mái tôn còn nhô lên. Khi đưa được cháu bé vào lòng mẹ, người thanh niên trẻ chỉ mỉm cười: “Cứu được một mạng người là đủ rồi”.

Giữa tâm lũ Sêrêpôk, đoạn nước sâu và chảy xiết giữa Buôn Đôn – Cư Jút, công nghệ tưởng như xa lạ bỗng trở thành cánh tay nối dài của lòng nhân ái. Một đội cứu hộ đã dùng drone thả dây cứu một người đàn ông bị mắc kẹt giữa dòng. Chiếc drone run bần bật trong gió, máy quay ghi lại hình ảnh người gặp nạn được kéo vào bờ an toàn.

Hình ảnh drone thả dây cứu một người đàn ông bị mắc kẹt giữa dòng sông Sêrêpôk.


Những câu chuyện này – không được kể bởi sự phô trương mà bởi sự thật – là ánh sáng le lói giữa đêm lũ, chứng minh rằng sức mạnh lớn nhất của người Việt không nằm ở phương tiện, mà ở tinh thần không bỏ nhau.


KHI LÒNG DÂN KẾT LẠI THÀNH MỘT MẠCH NGUỒN

Lũ về, nhưng ngay lập tức, sự chia sẻ cũng về. Không chỉ ở nơi dòng nước cuốn qua, mà ở những vùng đất cách xa hàng trăm cây số.

Từ Hội An, dù hằng năm cũng là vùng rốn lũ, người dân vẫn tổ chức quyên góp gửi hàng tấn nhu yếu phẩm lên Đắk Lắk: cá khô, gạo, mì, bánh chưng, chăn màn…. Một bà cụ ở Cẩm Kim nói: “Mình còn sống được, thì phải gửi lên cho họ”. Đó là cách cộng đồng này "trả ơn" sau bao lần miền núi từng gửi xuống từng bao mì tôm, thùng nước sạch thời Hội An bị bão.

Tại xã Hòa Thịnh (Đắk Lắk), vào lúc 21 giờ ngày 19/11, khi nước lũ dâng nhanh bất thường, nghe tiếng kêu cứu, anh Trần Công Thành nhanh chóng đã chèo chiếc ghe nhỏ đi cứu hơn 40 người trong thôn Phú Hữu. Anh kể: “Tôi sợ lắm chứ. Nước chảy mạnh, trời tối, mình run nhưng nhìn xung quanh toàn trẻ em và người già nên phải cố. May mắn trời thương, mọi người đều an toàn”.
 


Anh Trần Công Thành bên chiếc ghe nhỏ đã cứu 40 người trong lũ dữ ở xã Hòa Thịnh, Đắk Lắk. (Ảnh: TT)

Tại nhiều xã ở miền núi Phú Yên, những tổ “bếp đoàn kết” xuất hiện ngay khi nước rút: người nhóm lửa, người gói cơm nắm, người nấu cháo, gửi đến từng khu vực còn bị chia cắt.

Và đặc biệt, hình ảnh những chiếc máy bay Mi-17 của Trung đoàn 930 cất cánh liên tục trong mưa gió từ sân bay Phù Cát để thả hàng xuống vùng cô lập ở Đắk Lắk, Phú Yên… đã khiến nhiều người bật khóc. Giữa trời mù mịt, những “cánh chim sắt” ấy là lời khẳng định mạnh mẽ nhất: không ai bị bỏ lại phía sau.

Tình người – hóa ra – không bao giờ đi lạc, ngay cả khi nước lũ tràn về.

Lực lượng chức năng đưa người dân đến nơi an toàn - Ảnh: báo CCB Việt Nam.
 

VẾT THƯƠNG VÀ NHỮNG MẦM XANH KIÊN CƯỜNG

Đắk Lắk – Gia Lai – Lâm Đồng rồi sẽ mất nhiều tháng để hàn gắn sau trận lũ này. Lũ đi qua để lại những con số đau lòng, nhưng cũng làm hiện lên điều tưởng chừng mơ hồ: sức mạnh nội lực của cộng đồng.

Một bác nông dân ở Buôn Đôn nói: “Nhà mất rồi, nhưng người còn là được”.

Một phụ nữ mất cả căn nhà gỗ nhưng vẫn tự tay nấu hàng trăm suất cơm gửi cho đội cứu hộ.

Một đứa trẻ góp vào thùng từ thiện vỏn vẹn 17.000 đồng – là toàn bộ tiền nó dành dụm.

Những điều đó – nhỏ mà lớn – là sự tiếp nối của truyền thống Việt Nam: thương người như thể thương thân.
 

KẾT – KHI NƯỚC RÚT, LÒNG NGƯỜI VẪN CÒN

Thiên tai có thể quật đổ nhà cửa, cuốn trôi mùa màng, làm gãy sập những cây cầu… nhưng không thể cuốn đi nghĩa tình. Nếu có điều gì còn lại sau lũ, thì đó là hình ảnh những đôi tay chìa ra giữa dòng nước chảy xiết, những chiếc ghe mỏng manh cứu người trong đêm, những nồi cơm sẻ chia từ nơi xa, những chuyến bay vượt bão, và cả những chiếc drone nhỏ bé thả xuống một sợi dây hy vọng.

Đó là một Việt Nam mà chúng ta luôn tin vào – một Việt Nam nhân hậu, kiên cường, biết đứng lên giữa hoạn nạn, biết thương nhau bằng tất cả những gì mình có, dù ít ỏi.

Nước sẽ rút. Bùn sẽ khô. Những vết thương rồi sẽ lành.

Nhưng nghĩa tình trong ngày lũ lớn – những điều chúng ta chứng kiến những ngày qua – sẽ còn ở lại rất lâu, như một bài học giản dị mà sâu thẳm: Khi người Việt nắm tay nhau, không cơn lũ nào có thể nhấn chìm được chúng ta.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm