- Bút ký - Tạp văn
- Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Bút ký của ĐẬU THANH SƠN
“Ở tận sông Hồng, em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông,
Anh mãi gọi với lòng tha thiết:
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông!...”
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”, do Sở Văn hóa & Thể thao phối hợp với Hội Nhà văn TP. HCM tổ chức, trong khuôn khổ “Hội nghị tổng kết 50 năm, nền văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh, sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 - 30/4/2025).
Đêm diễn đã để lại trong tôi và khán giả những tình cảm và dấu ấn sâu đậm đặc biệt. Chương trình có 12 ca khúc tiêu biểu, là những bài thơ của nhiều tác giả, sáng tác từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến hiện tại. 12 bài thơ được âm nhạc, chắp cánh cho thơ bay cao, bay xa, trở thành những giai điệu tự hào và sống mãi với thời gian.
Điều để lại sâu đậm nhất trong tôi của đêm diễn, là ca khúc “Vàm Cỏ Đông” của nhà thơ Hoài Vũ được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc. Ca khúc ra đời từ năm 1966 đã đi vào lòng công chúng yêu thơ và yêu nhạc. Dẫu rằng chưa một lần tôi đến với dòng sông đó. Nhưng từ khi đang là học sinh cấp 2, tôi đã từng mơ ước sẽ có ngày đến với dòng sông Vàm Cỏ Đông… Và rồi như một định mệnh, một ngày cuối tháng 9 năm 1977, tôi đã đến với sông Vàm Cỏ Đông trong một cuộc hành quân lên biên giới.

Nhà thơ Hoài Vũ nhận hoa và quà lưu niệm của Ban Tổ chức chương trình
Tôi đã từng là người lính của Sư đoàn 341 (Đoàn Sông Lam). Sở dĩ sư đoàn tôi mang tên Sư đoàn Sông Lam, bởi vì sư đoàn ra đời trên quê hương Bác, nơi hơn 200 năm trước, trên đường hành quân ra Thăng Long, trong chiến dịch thần tốc đại phá quân Thanh. Vua Quang Trung đã dừng chân tại núi Đại Huệ để tuyển mộ thêm quân sĩ. Và cũng tại đây ngày 23 tháng 11 năm 1972, sư đoàn chúng tôi được thành lập. Ra đời trên quê hương Bác có dòng sông Lam thân yêu. Vì vậy, theo nguyện vọng của cán bộ chiến sĩ, ngày 22 tháng 12 năm 1972, Hội nghị Quân chính sư đoàn lần thứ nhất đã đề nghị Quân khu 4 và Bộ Quốc phòng, cho phép Sư đoàn 341 mang tên Sư đoàn Sông Lam (Đoàn Sông Lam). Kể từ đó cho đến nay Sư đoàn Sông Lam đã đặt chân trên mọi miền của Tổ quốc, làm nên trang sử hào hùng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ Quốc tế giúp bạn Campuchia. Cho dù ở đâu, dù thời chiến cũng như thời bình hiện nay, Sư đoàn Sông Lam luôn luôn đáp ứng được mọi yêu cầu, tình huống mà Đảng và nhân dân giao phó…
*
Từ dòng sông Lam xứ Nghệ, nơi sư đoàn chúng tôi sinh ra và cũng từ đó ra đi, một hành trình dài hơn nửa thế kỷ. Từ khi mái đầu chúng tôi đang còn xanh, nay tóc ai cũng bạc trắng. Sau hai năm huấn luyện miệt mài trên thao trường nắng lửa trên đất Quảng Bình và Vĩnh Linh, nơi tuyến lửa của Quân khu IV, cũng là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Theo tiếng gọi của chiến trường miền Nam, đầu năm 1975, tạm biệt dòng Kiến Giang thân yêu của quê hương Lệ Thủy (Quảng Bình), chúng tôi tức tốc hành quân vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Sau những tháng ngày chiến đấu với địch trên đường 13, tham gia giải phóng chi khu Chơn Thành (Bình Phước), thị xã Xuân Lộc, yếu khu Trảng Bom và thị xã Biên Hòa. Cùng với năm cánh quân, sư đoàn chúng tôi tiến vào Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau ngày thành phố được giải phóng, trong đội hình của Quân đoàn 4, sư đoàn chúng tôi nhận nhiệm vụ quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Đất nước hòa bình chưa được bào lâu, thì mây đen đã kéo đến vùng trời biên giới. Tập đoàn Khme Đỏ do Pôn pốt cầm đầu, theo cái gậy của bọn bành trướng nước ngoài, đã huy động nhiều sư đoàn tràn qua biên giới các tỉnh nước ta từ Gia Lai - Kon Tum, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, chúng tổ chức nhiều cuộc tấn công vào các làng mạc ở khu vực biên giới, gây ra hậu quả nghiêm trọng, khiến hàng nghìn người dân vô tội bị sát hại và tàn phá nhiều làng mạc ở khu vực biên giới. Trong cuộc tấn công lớn thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1977, 9 sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công đánh sang các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp và Tây Ninh. Riêng ở tỉnh Tây Ninh, 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành, đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.
Trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp, để bảo vệ biên giới thiêng liêng của Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân khỏi bàn tay man rợ của Khme Đỏ, Sư đoàn Sông Lam nhận lệnh lên đường ra biên giới. Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đó, một ngày đầu thu năm 1977, khi những tia nắng đầu tiên xuyên qua tán lá của những hàng cây cao su trong căn cứ Long Bình, cũng là lúc tôi cùng hàng ngàn cán bộ chiến sĩ của sư đoàn mang tên một dòng sông, đã ngồi gọn gàng trên 100 chiếc xe quân sự, với ba lô, súng đạn, lương thực và thực phẩm, chuẩn bị hành quân lên biên giới.
Lệnh hành quân được phát ra, đội hình xe nối đuôi nhau, rầm rập chuyển bánh từ căn cứ Long Bình (Biên Hòa) lên huyện Bến Cầu (Tây Ninh). Đoàn xe nối nhau đi qua Dĩ An, Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi rồi Trảng Bàng... Trên con đường chúng tôi đi qua vẫn tấp nập các loại xe cộ xuôi ngược. Những chiếc quân sự mang màu xanh cỏ úa đầy ắp bộ đội, súng ống và đạn dược. Cánh lính trẻ mới nhập ngũ chưa nếm trải máu lửa của chiến tranh, họ vô tư cười nói râm ran và cùng nhau hát vang ca khúc “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Người dân đi trên đường, người dân làm trên đồng ruộng hai bên đường, đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Có lẽ họ đâu biết rằng kể từ hôm nay chúng tôi bắt đầu bước một cuộc chiến mới với kẻ thù mới.
Đoàn xe nối đuôi nhau chạy qua huyện Củ Chi rồi sang tới đất Trảng Bàng. Nhìn những làng quê yên bình trù phú, ruộng đồng xanh tươi màu mỡ, lòng tôi thấy nôn nao khó tả, tôi nhớ quê hương với những kỷ niệm của tuổi thơ vô cùng. Đoàn xe vẫn giữ tốc độ chạy băng băng trên đường số 1 (nay là Quốc lộ 22). Đoàn xe qua khỏi ngã ba thị trấn Gò Dầu, từ từ chậm lại rồi đi trên một chiếc cầu bê tông, anh Trung nói với tôi:
- Đây là cầu Gò Dầu bắc qua sông Vàm Cỏ Đông!
- Ồ! sông Vàm Cỏ Đông đây hả anh? - Tôi hỏi lại.
- Đúng rồi bên kia cầu là huyện Bến Cầu, có cửa khẩu Mộc Bài đi sang Campuchia.
Tôi thực sự choáng ngợp và xúc động khi lần đầu tiên, nhìn thấy dòng Vàm Cỏ Đông, bởi vẻ đẹp có phần hoang dã và mạnh mẽ của nó. Trước đây tôi chỉ biết dòng sông này qua ca khúc “Vàm Cỏ Đông”. Con sông đã trải qua hai cuộc chiến tranh, để giữ gìn đất nước, dòng sông này đã đóng góp nhiều chiến công của quân và dân ta, nó đã đi vào huyền thoại, vào thơ ca và được lưu danh không những trên báo chí, sách giáo khoa, mà nó được ghi vào trang sử hào hùng của dân tộc.
Từ trên cầu Gò Dầu tôi ngắm nhìn dòng sông, trông như một dải lụa dài mềm mại, ôm lấy hai triền bờ xanh mướt cây trái. Sau những rặng dừa nước nghiêng soi dòng nước thấp thoáng những ngôi nhà. Trên sông “biêng biếc” xanh đó, những vạt lục bình lặng lờ trôi, xa xa có những chiếc ghe đang tung lưới đánh cá. Âm hưởng bài hát “Vàm Cỏ Đông” bỗng nhiên ngân lên trong tôi: “Ơi Vàm Cỏ Đông! Ơi hỡi dòng sông/ Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng/ Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ xâm lăng/ Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong...”.
*

Tác giả với nhà thơ Hoài Vũ
Tây Ninh là vùng chiến địa của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sông Vàm Cỏ Đông là nơi ghi dấu hàng trăm trận thủy chiến sinh tử giữa ta và địch. Có lẽ đây là dòng sông xảy ra nhiều trận đánh ác liệt nhất trong các cuộc chiến tranh. Trong cuộc kháng Pháp giai đoạn nửa sau thế kỷ 19, nghĩa quân của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã lập nhiều chiến công vang dội, trong đó có chiến công lừng lẫy đánh chìm tàu chiến Hy vọng của Pháp trên vàm Nhựt Tảo[1] vào ngày 10/12/1861. Chiến công “hỏa hồng Nhựt Tảo” là minh chứng cho tinh thần dũng cảm, sự thông minh, mưu trí của nghĩa quân chỉ với vũ khí thô sơ mà đánh bại được tàu to súng lớn của kẻ thù.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp sau này, vùng thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông và rừng Phước Vinh là căn cứ địa của ta, với những địa danh nổi tiếng như Trảng Trâu, Trảng Còng... đã được nhạc sĩ Hoàng Việt viết trong ca khúc “Lên ngàn” (năm 1952): “Hò ơi! Dòng sông chảy xiết lái thuyền chèo đi, trên sông Vàm Cỏ Đông, nước chảy ngược dòng, nước ngược dòng... Hò ơi!... Em chèo thuyền đi trên rẫy Trảng Còng, cắt lúa thay chồng, thay chồng nuôi con...”. Những ca từ của bài hát toát lên hình ảnh người phụ nữ Tây Ninh trong thời chiến, họ lao động vất vả nuôi con, để chồng đi giết giặc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, dọc theo dòng Vàm Cỏ Đông cùng với căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở khu rừng Lò Gò - Xa Mát, đã lập bao chiến tích oanh liệt, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, đánh bại chiến lược và âm mưu làm “trắng” vùng này của Mỹ - ngụy… Sông Vàm Cỏ Đông đã gắn bó với đời sống và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ miền Nam qua hai cuộc kháng chiến. Và hôm nay, chúng tôi những người lính Sư đoàn 341 (Sư đoàn Sông Lam) lại tiếp tục nối gót cha anh, đến đây để bảo vệ từng tấc đất, từng ngọn cỏ, từng mét sông ở nơi biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Xe chạy chừng 10 phút đến xã An Thạnh (huyện Bến Cầu) thì dừng lại. Chúng tôi đi vào nhà dân của một ấp bên đường 1 để trú quân. Tiểu đoàn 1 tiếp tục hành quân lên cửa khẩu Mộc Bài. Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 về xã Long Thuận, Long Hưng, những nơi mà lính Pôn Pốt đã tàn phá, giết người cướp của và đang chiếm đóng đất đai của ta.
*
Với âm mưu, mục đích chính trị phiêu lưu, cuồng vọng, được sự xúi giục và hậu thuẫn của bọn bành trướng nước ngoài cả về chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao, tập đoàn phản động Khmer Đỏ do Pôn Pốt cầm đầu, đã liên tục tổ chức xâm lấn biên giới nước ta, thực hiện các cuộc thảm sát đồng bào ta ở biên giới các tỉnh dọc theo biên giới cực kỳ man rợ, như thời trung cổ.
Cuối năm 1975, đầu năm 1976, quân Pôn Pốt xâm lấn vùng Sa Thầy (Kon Tum), phía Nam đường 9 và đêm 03 tháng 01 năm 1976, chúng đưa quân vào làng Sộp đốt hết nhà cửa, cướp hết tài sản và bắt đi 130 người dân của làng. Ngày 25 tháng 02 năm 1976, Pôn Pốt bất ngờ tấn công đồn Công an nhân dân số 7 và số 8 ở Đắk Lắk (nay là Đồn Đắk Dang, Đắk Nông). Tháng 4 năm 1977 Khme Đỏ tổ chức cuộc tấn công có quy mô lớn đầu tiên, trên đất liền vào biên giới lãnh thổ của nước ta, sau đợt chúng chiếm đóng trái phép đảo Thổ Chu. Một số nơi quân chính quy của Khmer Đỏ đã tiến sâu vào nội địa nước ta đến 10km, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang. Riêng tại xã Ba Chúc, trong suốt 12 ngày chiếm đóng (từ 18 đến 30 tháng 4 năm 1978), lính Khmer Đỏ đã giết chết 3.157 dân thường, chỉ còn lại ba người sống sót sau vụ tàn sát. Một số nơi khác thuộc các tỉnh giáp ranh biên giới, cũng liên tiếp xảy ra các hoạt động khiêu khích của lính Khmer Đỏ như xâm canh, lấn đất; bắn vào các đội tuần tra của các đồn Công an vũ trang biên phòng; uy hiếp nhân dân làm ăn, đi lại trên các sông rạch gần đường biên; tổ chức những cuộc tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn, ném lựu đạn... nhất là ở các tỉnh: Long An, Tây Ninh, Sông Bé...
Trước tình hình biên giới ngày càng phức tạp và nóng bỏng. Ngày 18 tháng 8 năm 1977, Quân đoàn 4 điều Trung đoàn 270 đi bảo vệ biên giới ở Hà Tiên (Kiên Giang), một đại đội pháo 85mm (của Trung đoàn 55) và một đại đội thiết giáp (thuộc Lữ đoàn 22), đi phối thuộc với Sư đoàn 7 xuống An Giang đánh địch, bảo vệ nhân dân, khôi phục lại biên giới. Ngày 29 tháng 9 năm 1977, các đơn vị còn lại của Sư đoàn 341 tạm biệt thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục lên đường hành quân về biên giới Tây Ninh. Cũng từ ngày ấy trở đi, sông Vàm Cỏ Đông đã gắn liền với chúng tôi, những người lính Sư đoàn Sông Lam và những trận đánh ác liệt trên vùng biên giới. Tuy có những tháng ngày đang chiến đấu ở biên giới Tây Ninh, nhận lệnh của trên lại cấp tốc cơ động xuống An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang để chiến đấu với quân Pôn Pốt, bảo vệ và khôi phục biên giới các tỉnh miền Tây. Nhưng phần nhiều thời gian chúng tôi chiến đấu ở biên giới Tây Ninh và gắn liền với sông Vàm Cỏ Đông. Tôi chẳng biết đã bao nhiêu lần qua sông Vàm Cỏ Đông, bao nhiêu lần đi qua cầu Gò Dầu, nhưng có lẽ dấu ấn ghi sâu vào ký ức tôi là đi qua phà Bến Sỏi sang phía Tây sông Vàm Cỏ Đông. Từ phà Bến Sỏi đi theo đường LTL13 (nay là đường DT781) hơn 10 kilomet là lên đến cửa khẩu Phước Tân. Vùng biên giới phía Tây sông Vàm Cỏ Đông (huyện Châu Thành) có 5 xã, gồm: Biên Giới, Hòa Thạnh, Hòa Hội, Thành Long và Ninh Điền. Đoạn sông Vàm Cỏ Đông đi qua các xã này dài khoảng 53 km đã chia cắt các xã với nhau, vì thế xã với xã chỉ cách nhau một con sông, nhưng thời ấy người dân và bộ đội chúng tôi đi lại khá khó khăn.
Những tháng cuối năm 1978, Sư đoàn Sông Lam tác chiến ở phía Tây sông Vàm Cỏ Đông, bộ đội ta đã đánh đuổi lính Pôn Pốt về bên kia biên giới, đến tận ngã ba Săng Ke (Sangkae) tỉnh Svay Riêng (Svay rieng). Khu vực này chủ yếu là đồng bằng, có những xóm ấp đất đai màu mỡ, cây trái tốt tươi như Lò Gò, Đây Xoài, Bến Chùa, Xóm Mới… Xen kẽ chia cắt bởi sông Vàm Cỏ Đông và rạch Nàng Dinh có nhiều ruộng nước và sình lầy, yếu tố này rất khó khăn cho việc cơ động của bộ đội và vận chuyển vũ khí hạng nặng như xe pháo. Riêng khu vực các xã Thành Long, Phước Vinh, Phước Tân chủ yếu là rừng bằng, cây cối rậm rạp. Khu vực này có hai con đường chính là đường LTL13 và đường 24 chạy qua. Cũng từ đây ba trung đoàn mạnh nhất của Pôn Pốt đang chuẩn bị mở đợt tiến công vào đường LTL13, với ý đồ đánh chiếm núi Bà Đen và thị xã Tây Ninh.
*
Để phá tan âm mưu của Pôn Pốt, Quân đoàn 4 đã giao cho Sư đoàn 341, được tăng cường hai trung đoàn của Sư đoàn 2 (Quân khu 5), Trung đoàn 201 và Tiểu đoàn 14 (Tỉnh đội Tây Ninh), có nhiệm vụ tiêu diệt ba trung đoàn Pôn Pốt đang lấn chiếm tại khu vực Năm Căn - Hòa Hội.
Để chuẩn bị cho trận đánh, các chiến sĩ trinh sát của sư đoàn, nhất là các chiến sĩ trinh sát pháo binh của Trung đoàn 55, đã vượt sông Vàm Cỏ Đông để sang bờ Tây, lặn lội trong rừng Phước Vinh cả một tháng trời, để đo vẽ, xác định tọa độ các mục tiêu cho trận địa pháo. Trong hai ngày 21 và 22 tháng 12 năm 1978, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 17 công binh, đã sử dụng ván gỗ, thùng phi, dây thừng, ngụp lặn trong làn nước sông Vàm Cỏ Đông lạnh giá và tối đen như hắc ín, lắp ghép thành một chiếc cầu phao tại bến Cây Sao, nhằm đưa bộ đội và súng đạn vượt sông sang bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông. Căn cứ vào phương án tác chiến, các đơn vị tổ chức bao vây địch vòng trong, vòng ngoài, nhiều tầng nhiều lớp, đồng thời bí mật luồn sâu sau lưng địch từ 15 đến 20km.
Giờ G đã điểm, đúng 6 giờ 35 phút ngày 23 tháng 12 năm 1978, Tư lệnh sư đoàn Vũ Cao ra lệnh nổ súng tấn công. Với chiến thuật luồn sâu, bao vây hình thành thế chia cắt địch, chọn hướng tiến công chủ yếu chính xác, tận dụng yếu tố bí mật, bất ngờ, nên ngay từ đầu quân ta đã triển khai lực lượng vào các vị trí tiềm nhập mà lính Pôn Pốt không hề hay biết, cùng với đó là sự chỉ huy linh hoạt của cán bộ các cấp và tinh thần dũng cảm, ngoan cường của bộ đội. Vì vậy trong 5 ngày tiến công liên tục, ngày 27 tháng 12 năm 1978 trận đánh vào Năm Căn - Hòa Hội kết thúc thắng lợi giòn giã. Ta đã đập tan kế hoạch đánh chiếm núi Bà Đen và thị xã Tây Ninh của Pôn Pốt. Tiêu diệt và làm tan rã ba trung đoàn mệnh danh là “đơn vị mạnh nhất” của địch, giải phóng một vùng đất rộng lớn phía Tây sông Vàm Cỏ Đông. Đây là trận đánh ghi dấu ấn sâu đậm nhất trong ký ức của tôi và của những người lính Sư đoàn Sông Lam.
Thú thật, những ngày đầu về chiến đấu ở chiến trường biên giới Tây Ninh, tôi không phân biệt được sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây. Đến khi nghe Tham mưu trưởng sư đoàn Vũ Thang chỉ cho tôi trên bản đồ, tôi mới phân biệt được. Theo thổ nhưỡng sông núi của trấn Phiên An Nam Việt trong sách “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức, thời nhà Nguyễn chép: sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ phía Bắc tỉnh Svay Rieng (Campuchia), với tên Prek Kampong Spean. Khi qua biên giới nước ta, sông có tên gọi theo tiếng bản địa là sông Cái Cậy, theo âm Hán tự cổ có nghĩa gần giống như suối tóc của người con gái. Sông có chiều dài 280 kilomet, phần chảy vào địa phận nước ta hơn 190 kilomet. Vào thời nhà Nguyễn, sông mang tên Quang Hóa, vì chảy qua gần lỵ sở và cắt ngang chính giữa huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh (tỉnh Gia Định)[2].
Tại Tây Ninh, sông Vàm Cỏ Đông chảy dọc biên giới từ phía Tây Bắc hướng Bến Cầu. Khi vào đất Tây Ninh còn được gọi là sông Suối Mây, khúc sông này có phần chảy ngang qua vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát, sau này là khu di tích Trung ương Cục miền Nam. Sau đó sông chảy dọc theo Châu Thành, Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng rồi qua đất Long An. Đoạn sông từ biên giới Tây Ninh đến Tân Trụ (Long An) gọi là sông Vàm Cỏ Đông, có chiều dài hơn 100 cây số. Từ xã Biên Giới và xã Thành Long (huyện Châu Thành), sông chảy quanh co, uốn lượn quanh những làng xã thuộc các huyện Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng rồi chảy qua các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Cần Đước (Long An), để rồi Vàm Cỏ Đông hợp lưu với Vàm Cỏ Tây ở Tân Trụ, tạo nên sông Vàm Cỏ đổ vào sông Soài Rạp và đi ra biển Đông.
Dưới những cánh rừng nguyên sinh của Phước Vinh, Hòa Hội, rất nhiều cây cổ thụ cao vút, ẩn chứa trong mình từ xa xưa cho đến nay những trầm tích văn hóa nhiều độc đáo và đa sắc màu của vùng đất Tây Ninh, đồng thời cũng là nơi ghi lại nhiều chiến công oanh liệt và kỷ niệm sâu sắc của bộ đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với chúng tôi, những người lính trẻ lần đầu đến với sông Vàm Cỏ Đông, và những ngày tháng chiến đấu gian khổ, ác liệt với quân xâm lược Pôn Pốt, mãi mãi là những kỷ niệm sâu sắc của một thời trai trẻ, một thời hoa lửa khó phai mờ trong ký ức. Tôi tin rằng: những người lính Sư đoàn Sông Lam sẽ hát mãi “Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông”.

Nhà thơ Hoài Vũ chia sẻ trong đêm diễn
Hôm nay trong chương trình “Giai điệu từ những vần thơ”, sông Vàm Cỏ Đông của nhà thơ Hoài Vũ và nhạc sĩ Trương Quang Lục, lại ngân vang trong khán phòng Nhà văn hóa Thanh niên và trong lòng tôi. Từ dòng Lam quê Bác ra đi, chúng tôi đã đến với Kiến Giang và sông Vàm Cỏ Đông. Đến hôm nay đã 53 năm, là một hành trình khá dài đối với một đời người. Đối với những người cựu chiến binh Sư đoàn Sông Lam, dòng sông đó vẫn chảy mãi trong lòng. Cũng trong đêm diễn, nhà thơ Hoài Vũ chia sẻ “Tôi rất xúc động khi bài thơ được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc vang lên trong chương trình. Tôi bất ngờ khi biết nhiều khán giả trẻ ngày nay vẫn còn yêu thích Vàm Cỏ Đông. Đó chính là niềm hạnh phúc lớn nhất mà mỗi văn nghệ sĩ có được trong sự nghiệp sáng tác của mình”.
TP. HCM, ngày 21/10/2025
Đ. T. S
[1] Sông Nhựt Tảo giao với sông Vàm cỏ Đông ở nơi gọi là vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
[2]Mùa thu năm 1836 (Minh Mạng thứ 17) miền đất Tây Ninh chính thức là một phủ thuộc tỉnh thành Gia Ðịnh. Phủ có hai huyện: Tân Ninh và Quang Hoá (theo sách Đại Nam nhất thống chí).