TIN TỨC

Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-21 18:43:11
mail facebook google pos stwis
9 lượt xem

TRẦN QUANG KHANH

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.

 

BÌA TAP THO - CHAM CHAM CHIEU.. (1)

 

Đã có biết bao những cảm nhận, tỏ bày tôn kính, tình yêu thương dành cho đấng sinh thành với mạch chảy dường như bất tận trên diễn đàn thi ca Việt. Có lẽ đề tài muôn thuở sẽ không có điểm dừng khô cạn mà mãi chảy tỏa như thanh âm rì rầm, vang vọng của tiếng suối trước miên viễn thời gian... Đó cũng là tiếng lòng, tiếng nói hồn nhiên nơi cảm thức của nhà thơ Thảo Vi qua hành trình sáng tác gần bốn thập kỉ của chị. Những tình cảm thiêng liêng cứ chứa chan, lặng lẽ ngấm vào con chữ, bên cạnh bao cảm xúc tình yêu, hoài niệm mái trường, nỗi nhớ quê hương... Từ tập thơ đầu "Nỗi nhớ mênh mông" (VN Châu Đốc, 1988) rồi lần lượt các tập thơ, tản văn tiếp sau. Cho đến tập thơ gần nhất "Chầm chậm chiều" (Nxb Đà Nẵng, 2022), thơ Thảo Vi vẫn đong đầy nghĩa cử sâu nặng yêu thương hướng về đấng sinh thành.

Nhà thơ Thảo Vi tên thật là Hồ Thị Huỳnh Đào, sinh năm 1958 tại An Giang. Chị là một nữ hiệu trưởng, nhà giáo đã hưu trí. Năm 1986, chị đoạt Giải Ba Cuộc thi thơ do Hội Văn nghệ An Giang phối hợp với Sở Giáo Dục- Đào tạo tỉnh tổ chức. Năm 2013, chị nhận “Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nam” và năm 2020 được trao tặng thưởng Cuộc thi Thơ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thơ Thảo Vi mang vẻ đẹp son sắt, trìu mến, dịu dàng từ một tâm hồn phụ nữ đầy hoài niệm, bao dung và thấu hiểu.

Người cha từ bao đời luôn là chỗ dựa vững chãi của gia đình. Vị thế mạnh mẽ ấy như để giúp các con bám giữ "chất lửa" giữa cuộc sống vốn nhiều chông gai, thử thách muôn trùng. Nhất là khi những đứa con thơ ấy bước vào biển cả cuộc đời... Bài thơ “Nhớ Ba” của chị phải chăng vì thế là tiếng lòng khắc khoải từ dòng hồi ức, chứa đựng sự tri ân "chất lửa" từ cha, với sự thổn thức, vang vọng đến tận hôm nay?

“Ba - người đàn ông có đôi tay tài hoa

Một tâm hồn nghệ sĩ

Và trái tim cả đời chỉ biết dành để yêu vợ, thương con…”

Cách dẫn vào đề trực diện, chẳng chút vòng vèo. Sự miêu tả ban đầu tựa như tác giả đang kể lại một câu chuyện, hay một trang nhật ký đời mình nhưng lại như mở ra những hình dung, suy ngẫm về sau.

“Bàn tay ba thả hồn vào những chiếc lá tơ non

Những cánh tròn cho nụ hoa chớm nở

Những cánh sen sắc hồng vàng tím đỏ

Đẹp lung linh"

Trong tâm cảm tác giả, mọi thứ vốn bắt đầu "Từ bàn tay cần mẫn của ba”... Cảm xúc mộc mạc, chân phương bởi lời tâm sự hồn nhiên, chân thật về một thời quá khứ của chính tác giả. Kỷ niệm thuở thiếu thời được nhìn ngắm qua đôi mắt con trẻ trong veo. Và được tô vẽ lung linh dưới lăng kính tưởng tượng đầy màu sắc. Câu thơ đọc lên tựa lời kể, tạo nét gần gũi với tâm hồn bạn đọc.

Biểu tượng "búp sen" rất giàu sức gợi. Dẫu mọc giữa bùn lầy sen vẫn thuần khiết, ngát hương như đã từ xa xưa trong cảm thức nhân gian. Sen là loài hoa thanh tịnh, cao quý, đài các... Sen hiện ra từ đôi bàn tay của cha thô nhám... Hay sen là đóa hoa nở giữa hồn người nghệ sĩ? Đoạn thơ giữa bài trôi theo những miền tưởng nhớ. Những kỷ niệm, những hình ảnh ngày xưa chợt hiện về trong tâm trí người con:

“Mắt không quên nhìn ba, từng nét vẽ...

Bàn tay ba thành thạo những điều mới mẻ

Những dây thiều, cây cốt, bánh xe

Cái đồng hồ… nhắc nhở tiếng thời gian trôi, trôi mãi…”

Âm điệu thơ thật tự nhiên, mênh mang, dễ gợi niềm hoài cổ cho những ai bồi hồi liên tưởng cái thuở gần gũi bên cha, bên mẹ. Được nghe lời răn dạy, tiếng vỗ về ủi an như khơi dậy, tái tạo thêm niềm tin yêu cuộc sống... Cách diễn đạt ấy mang yếu tố tự sự trữ tình. Giọng thơ ấm áp, thiết tha, lúc nào cũng ngụ ý gửi lòng yêu thương, kính phục người cha - "Ba làm nghề vì lẽ mưu sinh/Nhưng lương tâm người thợ ba đặt lên trên hết”... Mấu chốt để định hướng, đánh giá một người chẳng phải giàu hay nghèo vật chất, tiền của mà là nhân cách, lẽ sống với người thân, hành vi lao động nghề nghiệp cũng như cách cư xử với hàng xóm, cộng đồng. Nghề nghiệp nào cũng đáng tự hào, trân quý nếu ta dùng sự lương thiện và trong sạch để làm thước đo, lẽ tồn tại. Ở đời, chỉ ngại kẻ nghèo nhân cách, phẩm hạnh! Với cô con gái bé nhỏ ấy: Cha hiện lên trong ánh mắt tự hào.

Trong ký ức nơi chị, cha đã tự thân nghiên cứu, miệt mài "cứu chữa" cho những “vị thần thời gian” giữa màn đêm thinh lặng. Chỉ có thể cảm nhận, thấu hiểu với một sự chia sẻ lặng thầm:

“Đôi khi mồ hôi ba thấm vai

Trí óc ba không quen ngơi nghỉ

Đêm đêm bên ngọn đèn bình, tỉ mỉ

Ba cố tìm “căn bệnh” giữa những... lặng thinh”.

Chị nhớ người cha đã luôn chịu thương chịu khó, mày mò, tận tụy với nghề... Hơn thế nữa, chính sự thả mình vào lời ca tiếng hát mỗi đêm, với niềm đam mê trong sâu thẳm tâm hồn của ông giữa bao đau đáu, bộn bề... Những bài bản vắn, vọng cổ cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự thăng hoa, nét tài tử, nghệ sĩ toát ra từ người cha ấy... 

“Con nhớ ba, nhớ những tiếng tơ cứ lắng đọng, ngân nga

cung bậc bổng trầm âm vang đêm vắng

người thợ trải lòng qua khúc Phụng Cầu Hoàng, Nam Ai, Bản Vắn...

Ba hóa thành người Nghệ sĩ trong con!…

Ông không chỉ là người thợ tận tâm trong công việc đời thường mà còn là một nghệ sĩ tài hoa, đáng trân quý.

Ta từng nghe người xưa ví von: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”... Tình cảm bao la, đầy sự hy sinh của mẹ thật vô cùng thiêng liêng và sâu sắc dường bao. Người ta cũng thường ca thán "ôi lòng mẹ bao la hơn cả đất trời"... Nhà thơ Thảo Vi khi tuổi đã về đông, chợt ngồi lại nhìn về dĩ vãng. Để rồi chị ngẫm suy về “Dòng sông của mẹ”:

“Chẳng hiểu tự bao giờ

Con nước ngọt ngào ôm hai bờ sông Hậu

Chẳng hiểu tự bao giờ

Con sống trong lòng mẹ yêu dấu"

Một thoáng lắng sâu mơ màng, tác giả chợt băng mình chảy về nguồn thơ, chạm vào mạch sống mang tên: Mẹ. Bút pháp nghệ thuật đối lập như càng tô khắc đậm những cảm xúc thiết tha. 

“Mẹ cho con uống nước sông hiền hậu

Thay sữa mẹ cạn bầu”.

Đoạn thơ khai mở bởi dư vị của ấm nồng, ngọt ngào của dòng nước quê hương. Đó là những khúc hát ru êm ái được phả tâm hồn thương yêu vào đó, đưa tuổi thơ đi vào giấc ngủ, đồng thời cũng là khúc hát ru sóng sánh, long lanh thấm đượm nỗi niềm riêng, hay là nỗi ao ước khi nghĩ tưởng xa xôi hoặc có đôi lúc tự dưng bật ra những lời thổ lộ tâm tình... 

“Mẹ ru con nhịp sóng tròn yêu thương”

 

“Nhờ sông lồng lộng, nhờ câu ru hời

Thế rồi con lớn lên mau

Để nghìn năm vẫn là sông 

xuôi vào lòng mẹ mặn nồng lời ru...”

Tứ thơ thật lắng đầy. Đó là vẻ mênh mông, rộng lớn nhiều chiều kích của dòng sông vốn là hình ảnh ẩn dụ, ngụ ẩn những cung bậc cảm xúc, những ứng biến hóa thân vào dòng đời, những chặng đường thăng trầm của một đời phiêu dạt - bồng bềnh... Đó là dòng cảm xúc “nhớ mong” của sóng; cảm xúc trăn trở, xôn xao, bồn chồn “sóng vỗ trong lòng” khiến tâm tư trĩu nặng, xáo trộn, rối bời... Thậm chí dâng lên cao trào đỉnh điểm trong nhân cách hóa khi “nghe sông thở dài”. Thế rồi chất thơ từ cuộc đời vẫn dường như bất biến. Khổ cuối chợt biến tấu với thi ảnh đẹp chan hòa, gợi lên niềm lạc quan, trân quý cuộc sống. Một kì vọng đẹp, dịu dàng và đầy nhân hậu:

“...Mặt trời lên hẹn hò hai bến bờ

Dòng sông bỗng hóa thành thơ

Để ngàn năm vẫn vàng mơ lúa đồng

Để ngàn năm vẫn là sông…”

Ở bài “Quê hương mẹ”, ta như nghe lời thảng thốt, rung cảm tận đáy lòng của người con đã không còn gặp mẹ nữa giữa cõi trần này: "Từ khôn lớn con xa vòng tay mẹ/ Xa quê hương... ôi! nhung nhớ nào bằng”

Nỗi nhớ thật dịu dàng, da diết quá đỗi:

 

Nhớ đường làng, gian nhà nhỏ, bến sông trăng

Và mẹ hỡi, nhớ mẹ hơn tất cả

Mái tóc mẹ đẹp mây chiều mùa hạ

Chút thiên thần dìu dịu xuống hồn con

 

Và nhà thơ đau đáu một khi đọc được trong ánh mắt và cõi lòng người mẹ: Thương yêu - lo lắng - khắc khoải chờ trông...

“Sông nước quê ta bốn mùa vẫn chảy

Mắt mẹ buồn theo sóng nước mênh mông”

“Mắt mẹ triền thâm vạn thuở sầu”... Khép lại bài thơ là lời khuyên dạy con cái ăn ở hiền lành, không làm điều tổn thương kẻ khác, luôn giữ gìn những nhân hậu, tin yêu (Mẹ dạy con hiền ngoan như chim sẻ/ Yêu thật thà…). Người con hiếu kính ấy cũng đã có lời tâm nguyện với mẹ: "Mẹ hiền hỡi dù tháng ngày bóng xế/ Con cũng về sửa lại mái nhà xưa...

Cảm thức nhà thơ xuôi ngược theo cuộc hành trình ký ức, suy ngẫm để thấu hiểu, cảm thương cho mẹ. Và tình yêu ấy cứ mãi dạt dào, thiết tha theo quãng dài năm tháng.

 

Thao Vi 1 (2)

Nhà thơ Thảo Vi

 

Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.

Một thời đa truân, bộn bề nỗi vất vả, lo toan. Làm mẹ, rồi làm bà. Trải nghiệm bao ân nghĩa giữa cõi hiện sinh. Giờ đây, tác giả men theo lối nhớ tìm về những hình bóng cũ... Đời người có gì thiết tha sâu nặng hơn? Có gì lắng đọng bình yên hơn? Mỗi khi ta được trở về bên cha bên mẹ, trở về trong ánh sáng yêu thương.

T.Q.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm