- Chân dung & Phỏng vấn
- Nhà thơ Thu Bồn: Tráng sĩ buồn gửi hồn vào cỏ cây, hoa lá
Nhà thơ Thu Bồn: Tráng sĩ buồn gửi hồn vào cỏ cây, hoa lá
Vào những ngày tháng 6, mùa hè rực lửa như thiêu đốt. Tưởng nhớ 20 năm ngày mất của nhà thơ Thu Bồn (17.6.2003-17.6.2023) – thi sĩ tráng ca đã đi qua ba cuộc kháng chiến Chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc; nhóm bạn bè của ông đã ngồi lại với nhau trong một lễ tượng niệm nhỏ nhớ về ông.
“Rồi mai mưa gió qua đây/ Anh còn ở với cỏ cây, em về…”.
Vào những ngày tháng 6, mùa hè rực lửa như thiêu đốt. Tưởng nhớ 20 năm ngày mất của nhà thơ Thu Bồn (17.6.2003-17.6.2023) – thi sĩ tráng ca đã đi qua ba cuộc kháng chiến Chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc; nhóm bạn bè của ông đã ngồi lại với nhau trong một lễ tượng niệm nhỏ nhớ về ông. Đặc biệt dịp này, nhà văn Ngô Thảo đã cho ra mắt 4 cuốn sách về sự nghiệp và cuộc đời nhà thơ Thu Bồn theo đơn đặt hàng của nhà nước. Bốn cuốn sách một lần nữa đã làm sống dậy cuộc đời thi ca của nhà thơ “chim chơ rao”.
Suốt cuộc đời nhiều thăng trầm nhưng cũng đầy lộng lẫy của mình, nhà thơ Thu Bồn đã để lại cho đời những tác phẩm sống mãi với thời gian. Trong tác phẩm của Thu Bồn có khói lửa của chiến tranh, vị mặn của nước mắt và mùi nồng của máu. Nhưng có lẽ vì đi qua những tận cùng đau đớn của số phận nghiệt ngã, lại được nuôi dưỡng, trưởng thành trong màu áo lính mà ông giữ nguyên vẹn cho mình, một trái tim rộng mở yêu thương, một tâm hồn chứa đầy những giông gió “giời đày” của một thi sĩ. Người ta gọi ông là tráng sĩ, có lẽ tại dáng người cao lớn lừng lững, hay tại những tác phẩm thi ca của ông có sức vóc, nặng như lốc xoáy, nóng như núi lửa nham thạch trào dâng, hay cũng bởi sự quyến rũ, mê đắm “chết người” của người đàn ông từng trải đi qua đời của bao nhiêu “người đàn bà áo đen” như định mệnh.
Thu Bồn giờ đã tan vào với gió mây và ở nơi nào xa lắm, nhưng những người bạn văn của ông vẫn thường tưởng nhớ đến ông với một sự trìu mến, thân thương đặc biệt. Thế là hiếm lắm! Bởi vì không dễ gì người ta trọng nhau, vậy mà ông được nhiều bạn văn yêu quý. Ông như một thỏi nam châm có sức hút đặc biệt.
Mùa hè năm nay, nhà văn Ngô Thảo, một người bạn thân thiết đã dầy công sưu tầm, nghiên cứu chọn lọc cho ra đời 4 cuốn sách dày dặn, đẹp đẽ, sang trọng của nhà thơ Thu Bồn (sách do nhà nước đặt hàng). Đó là những bản trường ca, thơ, truyện ngắn, kí, và tiểu thuyết.
Ông Thu Bồn tên thật là Hà Đức Trọng quê ở Quảng Nam, sau này dính vào nghiệp văn chương ông lấy tên của dòng sông quê nhà cho bút danh của mình. Có lẽ, tên dòng sông đã vận vào cuộc đời ông. Ở đó có vô số sự êm đềm, dịu nhẹ của những mối tình ướt át, bay bổng đã đi qua. Có cả sự đau đớn, đòn oan trái của số phận nghiệt ngã khi những cuộc hôn nhân tan rã và số phận bi thương của con cái ông. Và những cơn lốc xoáy của dòng sông khi cuộc lên thác xuống ghềnh trong hoạt động nghệ thuật…
Ông sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Bố ông và chị gái bị giặc Pháp tra tấn và giết hại cho đến chết. 13 tuổi trở thành chú bé giao liên. Bước chân vào quân ngũ, mặc quần áo lính từ thuở tò te, sự cộng hưởng những gì đã chứng kiến buổi chiến trận, cùng tình yêu con người, đất nước cứ lớn dần lên trong tâm hồn ông cộng với khả năng thi phú nghệ thuật trời cho. Người con xứ Quảng, dòng máu nóng Lạc Hồng chảy tràn trong huyết mạch, đã hun đúc làm nên một trong những nhân vật hàng đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam thế kỷ 20 – nhà thơ Thu Bồn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhà thơ Thu Bồn có “Trường ca chim chơ rao” (1965). Tiếp tục tiếp nối bản tráng ca của nhà thơ Nguyên Ngọc “Đất nước đứng lên”. “Trường ca chim chơ rao” như bó đuốc chạy từ Nam ra Bắc đăng trên Báo Văn nghệ – văn học miền Nam mở đầu cho dòng trường ca mới. Ngày tổng tấn công Mậu Thân – Đà Nẵng, ông viết bài thơ “Đà Nẵng gọi ta” (1968): “Đà Nẵng gọi ta như người mẹ gọi con/ Như người yêu gọi người yêu xa cách/ Ta muốn nói với từng viên gạch…”. Tất cả những nhà chính trị của Đà Nẵng thời ấy đều coi bài thơ như bài hịch kêu gọi và có tác dụng mạnh mẽ như một sư đoàn, khích lệ, động viên rất nhiều người lính hăng hái lên đường ra trận.
Năm 1969, ngay khi hay tin Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, nhà thơ Thu Bồn đang ở chiến trường miền Đông Nam bộ theo dòng cảm xúc tuôn trào đã có bài: “Gửi lòng con đến cùng cha”: “Tiếc rằng trước lúc chia ly/ Con chưa thấy được dáng đi của Người/ Hẳn trong đôi mắt sáng ngời/ Vẫn vẹn nguyên một khoảng trời phương Nam/ Con qua Cẩm Lệ sông Hàn/ Ngũ Hành Sơn đứng mơ màng bóng Cha…”, bài thơ nhanh chóng bay lan ra khắp cả nước. Ngay lúc đó, phía học sinh, sinh viên trong đô thị Sài Gòn đã xúc động đọc bài thơ rất nhiều lần và đã biến câu thơ đó làm băng rôn, khẩu hiệu.
Chiến tranh tàn khốc dữ dội đã cho ông những câu thơ để đời và cũng lấy đi của ông những nỗi đau khủng khiếp. Người con trai xứ Quảng đa tài, đa tình trải qua vài ba mối tình rồi dừng lại với người con gái tên Thu. Tình yêu say đắm này đã khiến cho nhà thơ Thu Bồn quyết tâm gắn bó đời mình với nữ y tá Đỗ Thị Thanh Thu. Năm 1965, ngay trong chiến trận, giữa cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn nắng gió, hôm đám cưới diễn ra, một trận bom B52 dọn đường cho biệt kích đổ bộ, bom đạn đầy trời, rừng cây trụi lá xơ xác vì chất độc da cam trải xuống. Năm 1966, đứa con gái đầu lòng chào đời mang tên Thảo Nguyên. Do cuộc sống khốn khó trong chiến tranh, người mẹ mang bầu thiếu dinh dưỡng, đứa trẻ sinh ra ốm yếu còi cọc, hai chân bị cong quèo.
Hai năm sau 1968, trong lúc mang bầu người con thứ hai, hai vợ chồng nhà thơ Thu Bồn được điều động ra Bắc. Người đàn bà ôm bụng bầu vượt qua suối, băng qua núi rừng Trường Sơn đề về miền Bắc. Đến ngày vượt cạn, cậu bé chào đời mang tên Băng Ngàn (cái tên như nhắc về một thời kì gian khó vượt suối băng ngàn). Khổ thay Băng Ngàn sinh ra đến mấy tuổi vẫn chẳng nói cười, chất độc hóa học màu da cam ở núi rừng Trường Sơn đã khiến cho hai người con của nhà thơ bị di chứng nặng nề. Cuộc hôn nhân đầu tan vỡ sau nhiều năm chung sống, âu cũng là số phận.
Năm 16 tuổi, Thảo Nguyên con gái đầu lòng của nhà thơ mất do bệnh máu trắng, bác sĩ kết luận do ảnh hưởng của chất độc diôxin. Nỗi buồn thương tang tóc đổ ập lên đôi vai nhà thơ, khiến ông càng trở nên sầu héo và co lại. Nỗi mất mát khổ đau như vết dao cứa, đâm chém hằn nét ngang dọc vào trái tim tứa máu, chịu nhiều tổn thương của nhà thơ.
Trong hồi ức, ông viết: “Nhiều năm, hai cha con tôi ở trong một căn nhà nhỏ (trong ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế) cạnh phòng Nguyễn Đức Mậu, Lê Lựu. Cháu bị nhiễm chất độc da cam nên phải đi bệnh viện. Một đêm tháng 12 lạnh như dao cắt, cháu đã trút hơi thở cuối cùng tại giường bệnh 108… Tôi vuốt mắt con, ôm cái thân xác lạnh ngắt đau đớn đi từng bước một xuống cầu thang nhà xác. Tôi mượn cái lồng bàn úp lên thi thể của con. Sáng hôm sau tôi và Ngô Thảo đi Quan Thánh mua quan tài và cắt hộ khẩu cho con (cắt hộ khẩu báo tử mới mua được quan tài). Duy Khán đi tìm hai khúc chuối để thắp nhang, chị Định cho những đồng tiền để bỏ vào miệng cháu…”.
Nỗi đau mất con và ám ảnh chất độc hóa học màu da cam khiến trong cơ thể tưởng chừng tráng kiện của nhà thơ lại yếu mềm đến run rẩy vì sự ám ảnh sinh con, liệu rằng đứa trẻ có cơ thể lành lặn?! Chính thế nên những cuộc tình và hai cuộc hôn nhân sau này của ông đều không để lại mầm hạt.
Thu Bồn là người đa tình và cũng thực đào hoa. Nhà thơ Thu Bồn có người vợ thứ hai là nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát (nữ thi sĩ lúc này cũng đã qua 1 đời chồng và đã có con). Nhưng cuộc hôn nhân này cũng chẳng hề viên mãn. Hai người lại rẽ sóng ra đi mỗi người một hướng. Những năm cuối đời ông có người vợ thứ ba, nhưng ngay sau khi Thu Bồn mất, người vợ thứ ba đã bán hết mấy ngàn mét đất của Thu Bồn để lại, đi biệt tích. Con trai duy nhất còn lại của ông là Băng Ngàn ở với mẹ ruột (người vợ đầu của nhà thơ) không hưởng một chút quyền thừa kế.
Những người bạn văn và gia đình họ hàng của ông không ai còn biết tung tích của người vợ thứ ba này. Tấm ảnh thi sĩ Thu Bồn gửi trong ngôi chùa Tam Bảo bao năm vẫn hiu quạnh, người xưa không trở lại hương khói. Bao nhiêu năm nay vào ngày giỗ của nhà thơ, bạn bè, người thân tới thăm mộ ông ở nghĩa trang Sài Gòn, trên tấm bia mộ có hai câu thơ của ông dự cảm trước khi chết được khắc lên: “Rồi mai mưa gió qua đây/ Anh còn ở với cỏ cây, em về…”.
Ngôi trường cấp 2 ở quê hương ông mang tên nhà thơ Thu Bồn ngay sau khi ông được giải thưởng danh giá cao quý nhất về văn học nghệ thuật – Giải thưởng Hồ Chí Minh, năm 2017. Và sắp tới đây, sẽ có Trung tâm không gian văn hóa Thu Bồn ở trên quê hương của người con tài hoa xứ Quảng.
TRẦN MỸ HIỀN/ VNCA