TIN TỨC

Lưu Quang Vũ từng say đắm 3 Nàng Thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-08-30 11:16:44
mail facebook google pos stwis
1835 lượt xem

 

 Thiếu Nhơn

Công chúng ngưỡng mộ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948-1988) không chỉ bởi những vở diễn “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Lời thề thứ 9”, “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”, “Lời nói dối cuối cùng”... có sức rung động mạnh mẽ, mà còn bởi trái tim đa cảm mà ông thổ lộ trong thơ “đã có lần tôi muốn nguôi yên/ khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ nhưng vô ích làm sao quên được/ những yêu thương khao khát của đời tôi”.

Nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ

Tác phẩm sân khấu có thể kết tinh từ quan sát và chiêm nghiệm, còn tác phẩm thi ca chính là biên bản tâm hồn của tác giả. Tất cả những vui buồn riêng tư của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đều phơi bày qua thơ. Cho nên, từ thơ Lưu Quang Vũ có thể nhận diện ba nàng thơ từng khiến ông mơ màng và say đắm.

Nàng thơ thứ nhất là diễn viên Tố Uyên. Cùng tuổi với Lưu Quang Vũ, nhưng Tố Uyên đã nổi tiếng từ thời niên thiếu với vai chính trong bộ phim “Con chim vành khuyên” của đạo diễn Nguyễn Văn Thông. Bài thơ “Hơi ấm bàn tay” được Lưu Quang Vũ viết năm 1967 để tặng Tố Uyên: “Phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình/ Điều chưa nói thì bàn tay đã nói/ Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại/ Còn bồi hồi trong những ngón tay ta/ Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa/ Nhập luồng nước, hoà nhau màu sắc/ Trao cảm thương hay bàn tay nắm chặt/ Nghe máu mẹ cha chuyển giữa mỗi tay mình”.

Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và diễn viên Tố Uyên làm đám cưới năm 1969. Cuộc hôn nhân của họ kéo dài được 3 năm và có một con trai là Lưu Minh Vũ. Khoảnh khắc chia tay cũng được Lưu Quang Vũ ký thác ở bài thơ “Nói với con cuối năm” nghẹn ngào: “Con ơi, con hãy tha thứ cho cha/ Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được/ Đời cha nắng gắt/ Mẹ con cần suốt mát của đồng vui/ Con khôn lớn trên đời/ Hãy yêu thương mẹ/ Và hãy hiểu cho cha”.

Nàng thơ thứ hai là nữ sĩ Xuân Quỳnh. Thuở nhỏ, Lưu Quang Vũ vẫn thường xưng hô “cô Quỳnh” với nữ sĩ Xuân Quỳnh lớn hơn 6 tuổi. Họ đến với nhau vào năm 1973, sau khi Lưu Quang Vũ ly dị diễn viên Tố Uyên và nữ sĩ Xuân Quỳnh ly dị người chồng đầu tiên.

Bài thơ “Và anh tồn tại” được Lưu Quang Vũ viết tặng Xuân Quỳnh: “Anh lạc bước, em đưa anh trở lại/ Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi/ Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh/ Khi những điều giả dối vây quanh/ Bàn tay ấy chở che và gìn giữ/ Biết ơn em, em từ miền cát gió/ Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng/ Anh thành người có ích cũng nhờ em/ Anh biết sống vững vàng không sợ hãi/ Như người làm vườn, như người dệt vải/ Ngày của đời thường thành ngày ở bên em”.

Tai nạn giao thông khủng khiếp ngày 29/8/1988 đã cướp đi sinh mạng vợ chồng Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và đứa con chung của họ là Lưu Quỳnh Thơ. Bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ dành tặng Xuân Quỳnh có tên gọi “Thư viết cho Quỳnh trên máy bay” đề ngày 7/5/1988, với nhiều câu day dứt: “Có phải vì mười lăm năm yêu anh/ Trái tim em đã mệt/ Cô gái bướng bỉnh/ Cô gái hay cười ngày xưa/ Mẹ của các con anh/ Một tháng nay nằm viện/ Chiếc giường trắng, vách tường cũng trắng/ Một mình em với giấc ngủ chập chờn/ Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn/ Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt/ Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật/ Vẫn là gã trai nông nổi của em/ Người chồng đoảng của em/ 15 mùa hè chói lọi/ 15 mùa đông dài”.

Nàng thơ thứ ba là họa sĩ Nguyễn Thị Hiền. Lớn hơn nhà viết kịch Lưu Quang Vũ 2 tuổi, họa sĩ Nguyễn Thị Hiền là con gái của nhà văn Kim Lân. Hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền từ nhỏ đã được ca ngợi như một thần đồng mỹ thuật. Giai đoạn yêu họa sĩ Nguyễn Thị Hiền, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã có những vần điệu mà ông gọi là “Thơ tình về một người đàn bà không có tên”.

Tình yêu Lưu Quang Vũ và họa sĩ Nguyễn Thị Hiền chỉ thăng hoa giữa khoảng trống hai cuộc hôn nhân của Lưu Quang Vũ với diễn viên Tố Uyên và nữ sĩ Xuân Quỳnh. Thế nhưng, mối tình với họa sĩ Nguyễn Thị Hiền để lại cho Lưu Quang Vũ nhiều câu thơ hay đến mức ám ảnh.

Bài thơ “Lá thu” mà Lưu Quang Vũ viết tặng hoạ sĩ Nguyễn Thị Hiền khi ông nhìn người yêu đang vẽ tranh, có thể xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của ông: “Những lá thư không biết gửi về đâu/ Những hải cảng không có tàu cập bến/ Quen thất vọng, tôi hồ nghi mọi chuyện/ Tìm trong mắt em náo động những chân trời/ Ngõ phố dài hôm ấy mưa rơi/ Đã xa vắng trên mặt đường sắc lạnh/ Tóc em rối và áo em đỏ thắm/ Những bức tranh nổi gió ở trên tường/ Thế giới xanh xao những sự thật gầy gò/ Em đã đập vỡ ra từng mảnh/ Giấu sôi sục trong những đường nét lạnh/ Em đi tìm thế giới của riêng em/ Tình yêu và nỗi khổ của riêng em/ Niềm tin lớn giữa cuộc đời vô lý/ Nghĩ về em bao buổi chiều lặng lẽ/ Tìm trong em bao khát vọng không ngờ”.

L.T.N/NNVN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm