- Chân dung & Phỏng vấn
- Nguyễn Thị Ánh Huỳnh – Chiếc lá xanh trên những cành xanh
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh – Chiếc lá xanh trên những cành xanh
Nguyễn Trọng Văn
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Mười lăm mười sáu năm trở lại đây, độc giả yêu thơ quen thuộc với một nhà thơ nữ qua những tập thơ “Giọt mưa bất chợt” (2003), “Không dám tắt đèn” (2005, tác phẩm đã nhận tặng thưởng thơ của Hội Nhà văn TP.HCM), “Đừng múc cạn nỗi buồn” (2008) và “Những vàm sông đêm” (2018). Tác giả của những tập thơ này là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh…
Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
Lần đầu tiên tôi biết đến thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh là khi chị gửi chùm thơ tham dự cuộc thi thơ chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, mang tên là “Thơ về Hà Nội” do báo Văn nghệ và đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội phối hợp tổ chức. Đó là quãng năm 2008 – 2010. Thú thực khi đọc những câu thơ: “Ngó từ cửa sổ máy bay/ tạm biệt!/ Hà Nội dưới hai ngàn mét/ xanh một vệt cảm động/ còn ai đó chào em/ kìa sông Hồng / cuốn lấy Thủ đô / yêu đương ì oạp” (Hà Nội hớp hồn ai)… tôi đã “giật mình”. Thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh có gì đấy đầy nữ tính được ẩn trong “vẻ” mạnh mẽ và hiện đại.
Thế rồi được làm quen với chị nhưng mà chỉ được làm quen dưới dạng “kết bạn” trên FB. Ban đầu khi thấy “nick” ghi là “Chiếc lá trên cành” tôi đã ngại. Ngại lắm khi kết bạn với những ai dùng “nick” không sử dụng tên thật, nhưng rồi “sự ngại” nhanh chóng trôi qua. Tấm ảnh đại diện đã cho tôi sự tin cậy. Đó là một người đàn bà có nét mặt thân gần. Nhưng cho mãi tới giữa thu năm 2015 tôi và chị mới được trò chuyện nhiều hơn, dịp đó Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ 9. Buổi tối trước ngày khai mạc, như thông lệ, các đại biểu sẽ có buổi “làm việc” trước khi Đại hội chính thức tại Khánh sạn La Thành. Vừa bước chân vào sảnh trong thì tôi thấy một dáng người nhanh nhẹn rời khỏi ghế ngồi tiến lại gần. Tôi hơi ngỡ ngàng vì bất ngờ nhưng cũng dễ dàng nhận ra chị. Nguyễn Thị Ánh Huỳnh “củng cố” thêm, chị cười nói nhỏ “Chiếc lá trên cành đây mà”. Vậy là hai chị em thân với nhau. Chị bảo: “Truyện ngắn ‘Ngôi sao xanh xa ngát’ của Văn mình thích lắm. Giá mà có tiền để làm phim nhựa thì tuyệt”. Tôi mừng lắm, mừng nhất là “các nhà văn còn đọc nhau”.
***
Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh khi “U50” mới trình làng với tập thơ Giọt mưa bất chợt nhưng đã nhanh chóng “lấy lòng” được độc giả yêu thơ bằng một “lối” thơ khá hiện đại. Một sự muộn màng? Tôi có lần hỏi nhưng nhà thơ chỉ mỉm cười, chị không nói. Tôi đành kiểu tự nói với mình: “Năm 2003 in tập thơ đầu tay để rồi 4 năm sau thành ‘nhà thơ’ thực thụ, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007, chậm mà hóa ra nhanh”.
“Người con gái Long An” – mọi người đã thân mật gọi chị như vậy bởi mảnh đất Cần Đước ở nơi cuối dòng của con sông Vàm Cỏ Đông chính là quê hương chị. Cho dù sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn nhưng mà sao người đọc vẫn phải “thảng thốt cõi lòng” khi đọc thơ của chị. Chắc hẳn chị phải yêu quê hương miền hạ Long An đến nhường nào mới viết được những câu đầy ám ảnh “Đước à/ có tiếng cười lạt lẽo/ nhưng khóc không lạt lẽo/ khóc mặn/ một hôm/ những cây đước bước lên bờ thành người Cần Đước/ em – người đàn bà miền Nam gốc đước” (Cần Đước).
Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh vốn là một cô giáo dạy văn cấp 2, cư trú tại Quận 8, TP.HCM. Những năm 80 của thế kỷ trước, đời sống kinh tế khó khăn, lại một nách 3 con nhỏ nên chị đã nghỉ dạy để ra tạp hóa ở chợ Hòa Hưng. Trong cái thời buổi “gạo tiền” ấy. Trong cái thời buổi “cơm áo không đùa với khách thơ” ấy, năng khiếu thơ và niềm đam mê thơ ca của chị đã bị cuộc sống khốn khó phong tỏa. Những tưởng thơ ca sẽ chỉ là dĩ vãng, ấy vậy mà hồn thơ trong chị cứ “dùng dằng”. Chị kể: “Chỉ những lúc về khuya, những cảm nhận đời sống qua sự nhạy cảm của sợi dây tình cảm thi ca mới lại được trỗi dậy”. Và cứ thế cứ thế, cô cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn lại ngồi dậy âm thầm làm thơ. Những bài thơ viết vội. Viết như thể nếu không viết thì cảm thấy như mình đang mắc lỗi vậy. Hồn thơ trong chị ào ạt tuôn trào để rồi lặng lẽ đọng lại trên những trang giấy viết học trò. Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh tâm sự: “Hai con trai học xong đại học mình mới dám in tập thơ đầu tay” (đó cũng là lúc chị trở thành hội viên Hội Nhà văn TP HCM).
Hóa ra là vậy. Với thơ, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh chưa bao giờ “muộn” cả mà chị chỉ chờ dịp thích hợp thì mới công bố mà thôi. Thảo nào khi nghe tôi hỏi về sự muộn mằn chị chỉ mỉm cười chứ không nói.
Tôi được nghe kể rằng, một dạo ở Sài Gòn người ta cứ thắc mắc không hiểu vì sao có một người đàn bà bán bánh mì trên hè phố mà có nhiều nhạc sĩ đến để đặt hàng viết lời bài hát đến thế. Đấy là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh. Nếu nói theo cách người ta hay nói bây giờ thì “Thơ của mình phải như thế nào người ta mới đặt làm lời ca khúc chứ”. Người đàn bà có vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt nhu lành, tính nét thân gần ấy tưởng như chì biết lo toan việc nhà chăm chút con cái, ấy vậy mà “tâm hồn dào dạt”. Người ta còn nói thêm, chị đã phải giấu chồng giấu con, đem những tờ giấy có lời bài hát (kiểu “lén lút” gửi những lá thư tình vậy) ra ngoài đầu đường để trao cho các nhạc sĩ và để nhận về chút ít tiền “nhuận bút”. Chuyện nghe vui vui, chuyện thơ nghe chen lẫn chuyện đời.
Bìa tác phẩm của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.
Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh cho hay quê hương chị có thứ gạo Nàng Thơm ngon nổi tiếng. Những ai đã một lần được bưng bát cơm nấu bằng gạo Nàng Thơm hẳn không thể nào quên được thứ mùi có vị ngọt ngào ấy. Được ăn gạo Nàng Thơm, được uống nước Vàm Cỏ Đông – dòng sông thi ca ấy và “má chôn cuống nhau em/ vào tiếng cuốc/ chiều miệt vườn gió lạc trong cây/ đêm bị thương bởi tiếng đờn cò/ chú Tư vuốt/ ánh trăng thành tiếng nấc/ miệt vườn/ gan ruột ai xuống xề câu vọng cổ” (Miệt vườn) mới thấy dù sống xa quê nhưng tình yêu quê hương chưa khi nào cạn nguôi trong chị.
Có lẽ vậy chăng mà đọc thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, ta càng hiểu thêm về chị, nhất là khi nhà thơ từng trải qua quãng đời cơ cực của một gia đình trí thức, tần tảo vượt qua lận đận thời cuộc. Cay đắng nhiều, thêm quả ngọt, vợ chồng chị nuôi con khôn lớn, thành tài. Dù không còn những lãng mạn vẩn vơ song phía sau những câu chữ vẫn là màu lãng đãng mà chất chứa nhiều ân tình sâu nặng. “Chúng ta lấy nhau/ vì khát/ giếng nước yêu/ đứt sợi dây gàu/… em ngó trời/ thấy giếng mọc thành sao”. Hay như những câu thơ “Xin anh/ đừng múc cạn nỗi buồn/ trong đôi mắt em/ để em còn là giếng nước” (Đừng múc cạn nỗi buồn).
Có lần tôi hỏi nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh “Sao lại là chiếc lá trên cành?”. Chị cười: “Thì mình chỉ mong được như là một chiếc lá thôi”. Chất “con gái” vẫn là đấy, nhẹ nhàng và giản dị. Cái chất con gái trong thơ chị cho dù được biểu đạt bằng cảm nhận tâm hồn của một thi nhân hay diễn đại bằng những ngôn chất chứa cuộc sống thực nhưng chẳng thể nào lẫn được “bắc một cái thang/ là đèo Chuối/ bắc hai cái thang/ là đèo Bảo Lộc/ bắc ba cái thang/ là đèo Prenn/ em đã trèo lên mây/ bằng xe hơi/ Đà Lạt treo trên trời/ lửng hửng mù sương” (Bắc thang lên Đà Lạt).
Thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh đọc sao mà “sướng” những câu thơ không giấu giếm, không ngại ngùng nhưng vẫn cho thấy một trái tim con gái rất “mong manh”. Những câu thơ như sau chẳng hạn “Nhớ tối nào/ anh hôn em/ bầm dập cả trăng non/ giữa trưa nắng/ anh hôn em/ trời đất tối mù/ trong đêm đen/ không có anh/ em vẫn được hôn/ sáng thức dậy/ chẳng có ai hôn ai/ ngoài ban mai/ đang hôn từng/ giọt sương/ sắp khóc” (Nụ hôn).
Sau đại hội lần thứ 9 Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh được “ngồi” trong Hội đồng Thơ, đó không chỉ là vinh dự mà điều đó thể hiện “về sự đánh giá” tài năng thơ của một “giọng thơ” đất phương Nam. Tôi đùa: “Được thiên hạ vị nể là nhất rồi còn gì”. Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh lắc đầu “Ngồi để làm việc cho công bằng, cho tử tế thì là một áp lực không hề nhỏ”. Rồi Hội đồng Thơ được lập mới theo định kỳ lại không thấy tên chị. Thôi cứ làm thơ bằng suy nghĩ của mình. Đấy, chùm thơ của chị mới in trên báo Văn nghệ hôm mùng 8 tháng 6 đấy. Hay “quá xá” luôn.
Tại sao lại là “Chiếc lá trên cành” nhỉ? Tôi chợt hiểu ra: “Thà làm một chiếc lá xanh trên những cành xanh còn hơn, chị nhỉ?”.
09/7/2019
N.T.V
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh sinh năm 1955, ở Sài Gòn. Quê gốc Cần Đước, Long An, từng là giáo viên dạy văn. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
Tác phẩm:
Giọt mưa bất chợt (Thơ, NXB Văn Học,2003);
Không dám tắt đèn (Thơ, NXB Hội Nhà Văn,2005);
Đừng múc cạn nỗi buồn (Thơ, 2008);
Những vàm sông đêm (Thơ, 2018).
Giải thưởng:
Tặng thưởng Thơ Tạp chí Tài Hoa Trẻ năm2001;
Giải thưởng thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội năm2008;
Giải thưởng thơ Hội Nhà văn TP.HCM năm 2006;