TIN TỨC
  • Truyện
  • Tiếng trống gọi mùa ban - Truyện ngắn của Hà Minh Hưng

Tiếng trống gọi mùa ban - Truyện ngắn của Hà Minh Hưng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-12-20 00:35:01
mail facebook google pos stwis
12 lượt xem

Tâm lý chung nhiều người khi đã đến một nơi rồi, lần trở lại thường không còn háo hức lắm.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Minh họa: Nguyễn Minh

 

Nhưng với Trường thì khác, mỗi khi nhắc đến địa danh ấy trong anh lại trào lên thứ cảm xúc lạ lùng, như thể luôn có một sợi dây vô hình kéo anh về phía những ký ức chưa từng được chạm tới. Anh không lý giải được vì sao, chỉ biết rằng, mỗi lần trở lại Điện Biên, tim anh lại rung lên.

Thời đại học, Trường có đứa bạn cùng lớp tên Ly quê ở Him Lam. Mỗi dịp tụ tập, Ly say sưa kể chuyện hoa ban, nào xôi tím mẹ ủ trong ếp nóng hổi thơm lừng, nào món nộm thanh mát chế biến từ những cánh ban non khiến đám sinh viên thèm rỏ rãi. Từ lâu, hình ảnh hoa ban, cô gái Thái dịu dàng bó thân áo cóm sát eo vẫn là cái gì đó xốn xang tâm hồn Trường. Chả thế mỗi khi đọc, xem thông tin nào đó về vùng đất lịch sử, đầu anh lại vang lên câu thơ của Trần Mạnh Hảo:

“Hoa ban nở thành người con gái Thái

Đám mây bay trong thau nước gội đầu”.

Không biết có phải những điều ấy đã gieo vào tâm trí Trường những tình cảm đặc biệt cho vùng đất này chăng? Cũng chưa hẳn, bởi hoa ban, hay thi ca mà sâu xa hơn, Điện Biên đã ám ảnh anh từ lâu qua đôi mắt bà nội…

Dịp này, công ty tổ chức chuyến du lịch về nguồn, anh vui lắm, lấy điện thoại gọi ngay cho Linh, cô bạn gái phóng viên. Đầu dây bên kia, Linh thoáng do dự, “Điện Biên á? Giờ người ta đi biển, hoặc lên núi nghỉ dưỡng homestay, chụp ảnh với ngắm mây. Còn Điện Biên thì… ngoài mấy điều đã đọc trong sách báo, có gì mới đâu anh?”. Câu trả lời khiến anh chùng xuống. Rốt cuộc, Linh vẫn nhận lời, có lẽ vì chiều anh. Trường tự nhủ, đến đấy, Linh sẽ hiểu.

*

Buổi sớm Điện Biên mờ sương, hoa ban trắng rắc đầy hai bên đường dẫn vào Nghĩa trang A1. Đoàn dừng lại trước bạt ngàn mộ chí. Bất giác, ngực Trường rung lên, như có tiếng trống từ lòng đất vọng về. Anh đưa tay chạm vào tấm bia đá lạnh và ngay khoảnh khắc ấy, một nhịp thôi thúc mơ hồ dội lên trong lòng, vừa như lời gọi, vừa như tiếng trống giục không biết từ đâu.

Anh bước chầm chậm, tay nhè nhẹ chạm lên từng dòng tên. Một cảm giác dâng trào, vừa xa lạ, vừa thân quen, như thể anh đã từng đi qua nơi này trong ký ức. Mắt nhắm nghiền, Trường thấy ùa về những bài học lịch sử thuở nào. Nhưng lần này, lịch sử không còn là con chữ, mà là hơi thở ngay trước mắt.

…Đồi A1 sừng sững giữa thung lũng Mường Thanh, như cánh cửa cuối cùng che chắn cho sở chỉ huy của tướng Đờ Cát. Gần sáu mươi ngày đêm, bao nhiêu đợt tấn công của bộ đội ta tràn lên giữa mưa bom bão đạn. Đất đỏ chiến hào thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt. Có những chiến sĩ vừa tròn mười tám, đôi mắt còn trong veo, vậy mà sẵn sàng lao mình vào lửa đạn…

Như có tiếng trống vọng về làm Trường chững lại. Anh lắng nghe và nhận ra, đó chỉ là tiếng gió rít qua rừng cây, hòa lẫn vào tiếng lá xào xạc, tạo thành âm vang mơ hồ như ảo ảnh. “Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia A1, nơi yên nghỉ của hơn sáu trăm liệt sĩ, phần lớn là vô danh, hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ...”, Nghĩa, chàng hướng dẫn viên có giọng trầm ấm giới thiệu. Những vệt chiến hào xưa loang lổ còn in rõ trên đất, khiến tim anh đập dồn dập, như nghe đâu đó tiếng gọi vọng lên từ đất.

Đang mải với những hồi tưởng lịch sử, suýt anh va vào một ông già tóc bạc, ngực đeo lấp lánh những huy chương. Ông chống gậy, bước chậm rãi, mắt nhìn về phía đoàn. Thấy anh lúng túng xin lỗi, ông gật nhẹ, chậm rãi hỏi: “Các cháu về thăm A1 à? Ở đây… nhiều đồng đội của ông còn nằm lại”. Nghe ông nói, Trường lặng người đi. Nghĩa giới thiệu ông là Lường Văn Sủ - pháo thủ từng trực tiếp chiến đấu tại đồi A1. Câu chuyện của cựu binh Sủ đưa Trường trở về những ngày ác liệt nhất của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Thời điểm đó, hoa ban còn rộ lắm. Trời lòng chảo bắt đầu mưa, những chùm ban cuối vụ chưa muốn tàn, một mầu trắng rải khắp triền núi như ngọn lửa lạnh âm thầm soi sáng những ngày dài kháng chiến. Ban ngày pháo thủ Lường Văn Sủ cùng đồng đội kiên cường bám trụ, chiến đấu cầm cự. Đêm xuống đội anh lặng lẽ đào hầm xuyên đồi, nhịp nhàng cơ động vận chuyển từng gói bộc phá vào vị trí đã điểm. Bỗng Trường sững lại, mồ hôi túa lạnh trên trán, khi ông Sủ nhắc tên đồng đội Trần Văn Sỹ. Khoảnh khắc ấy, Trường như thấu hiểu sâu hơn sự hy sinh của ông nội và nhận ra vì sao nơi đây vẫn vang vọng những nhịp trống vô hình gọi hồn người về.

Qua lời kể của cựu binh già, hình ảnh ông nội Trường hiện lên mồn một. Trời Tây Bắc tháng tư đã lất phất mưa, chiến hào sũng nước, đất nhão nhoét thục đến gối. Trong hầm công sự chật hẹp, ông nội cùng đồng đội ngày đêm đào hào, khoét núi, đường hầm mở chỉ vừa đủ một người trườn qua, bí mật áp sát địch. Đêm đêm, pháo kích vẫn đì đùng trên đầu. Dưới lòng đất, chiến sĩ ta cần mẫn đào hầm công sự, từng nhát xẻng cắm sâu như những chú dế chũi nhỏ bền gan. Công việc vốn đã cực nhọc lại phải ngụy trang kỹ lưỡng, bí mật vận chuyển đất đưa ra ngoài, tránh tầm quan sát địch. Nhiệm vụ số một là bảo đảm đưa khối bộc phá vào đúng vị trí an toàn. Đường hầm ngày một đào sâu, khoảng cách giữa ta và địch chỉ còn vài chục mét. Đêm đêm, pháo kích rền rĩ trên đầu, lựu đạn vẫn chát chúa nổ như xé toác không gian, mùi thuốc súng xộc thẳng vào mũi, nóng ran trong lồng ngực. Từng động tác phải cẩn trọng tuyệt đối, chỉ một sơ suất cũng có thể trả giá bằng sinh mạng và làm hỏng toàn bộ kế hoạch tác chiến…

Trường nhào đến ôm lấy ông Sủ, giọng nghẹn lại: “Ông ơi, con là cháu nội của đồng đội ông, Trần Văn Sỹ đây!”. Ông Sủ sững người, nhìn Trường thật lâu, rồi đưa tay chạm nhẹ lên má cậu. Ông nghèn nghẹn:

“Đúng rồi… ánh mắt này, khuôn mặt này… giống anh Sỹ lắm. Thế là ta yên lòng rồi. Chiều nay con ghé nhà, ta có việc muốn nhờ!”.

Bên bếp lửa nhà sàn, ông Sủ kể: “Ngày đó, ta là chàng trai Thái 19 tuổi và tân binh Trần Văn Sỹ vào đơn vị cùng một ngày. Đêm xuống đơn vị ta làm nhiệm vụ đào hầm xuyên đồi A1, đưa thuốc nổ áp sát lô-cốt địch. Những ngày ấy, chiến hào đẫm mưa, đất nhão đến gối, nhiều người ngột ngạt lịm đi dưới hầm tối, nhưng vẫn thay nhau đào, quyết giữ từng tấc đất...”.

Giờ trên đã định. Đêm xuống, khối bộc phá gần một tấn được kích hoạt, cả đồi A1 rung chuyển. Tiếng hô “xung phong!” dậy như sấm. Trong màn lửa mù mịt ấy, một quả đạn cối nổ ngay vị trí hai người. ông Sủ chỉ thương nhẹ; còn ông Sỹ ngực bê bết máu, trong phút chốc, ông Sỹ cố rút chiếc khăn của vợ trao bạn, thều thào: “…không… về được… gửi hộ tao…”. Máu Sỹ thấm vào khăn, nhuộm đỏ. Sủ mang kỷ vật ấy suốt đời. Mỗi đêm, ông lại gõ trống gọi hồn bạn, theo phong tục người Thái, như để trò chuyện với người đã khuất.

Ông Sủ lấy chiếc khăn bạc màu trao cho Trường. “Ta giữ hộ anh ấy đã gần bảy mươi năm. Nay xin trả lại cho gia đình”, Trường ôm lấy ông Sủ mà nghẹn lời.

*

Về phòng, Linh hào hứng mở laptop khoe: “Em sẽ làm phóng sự thật mạnh về sự kiện này”, Trường sững người nhìn dòng tít “Khăn máu trên đồi A1 - bí ẩn chôn vùi”. Anh cau mày: “Sao em lại viết như một bài câu view thế này?”, Linh không hề nao núng, đôi môi mím lại: “Nếu anh muốn người ta nhớ, thì phải cho họ thấy. Người ta không đọc những chuyện trầm ấm nữa - họ chỉ click vào cái họ cảm thấy sốc. Em không làm xấu, em làm cho họ chú ý”. Giọng Linh khô, lý lẽ lạnh như dao. Trường gắt lên: “Nhưng đây không phải chuyện để giật gân mà là máu xương, là ông nội anh và đồng đội. Nếu biến thành trò câu khách, khác gì xúc phạm những người đã khuất”.

Trận cãi vã khiến Linh bỏ đi, mắt đỏ hoe. Đêm đó, Trường lang thang trở lại đồi A1. Gió rít qua những thân ban như tiếng trống thùng… thùng… vọng về bên tai. Trong mơ hồ, chiến hào sáng bừng lên. Một người lính trẻ, gương mặt hao hao Trường, bước ra. Giọng ông nội vọng về: “Cháu đã đến rồi. Hãy viết, viết một cách chân thật, để chúng ta như được sống trong lòng mọi người”. Trường thức giấc trong sương lạnh, lòng cuộn lên một niềm thôi thúc mãnh liệt.

Sáng hôm sau, Trường và Linh trở lại Nghĩa trang A1. Ba cựu binh cụt chân, cụt tay gõ trống bảy hồi, gọi đồng đội về nhận nén hương lòng. Linh đứng lặng. Điện thoại trong tay hạ xuống, ánh mắt cô dịu lại.

Trong căn phòng nhà khách Điện Biên thoảng mùi hoa ban, Trường ngồi bên Linh cẩn trọng ghi chép lại câu chuyện của ông Sủ. Những trang sổ tay vàng ố, những gương mặt đồng đội năm xưa, đó là những con người tuổi đôi mươi, người thích hát then, người mơ sau này thành thầy giáo… khiến Linh im lặng rất lâu.

Trở về Hà Nội, Trường mang theo chiếc khăn cũ. Thu xếp công việc, anh vội về quê. Vẫn hình ảnh đó, bà nội ngồi trước hiên, mái tóc bạc phơ lay nhẹ trong gió, Trường bước đến, đặt chiếc khăn vào tay bà. Bà khựng lại, đôi mắt rung lên khi nhận ra vật quen thuộc. Những ngón tay gầy guộc run rẩy lần trên viền khăn sần sùi, khô đanh bởi những vệt máu năm nào. Mắt bà nhòe lệ, giọng nghẹn đi: “Dù muộn… cuối cùng ông con cũng về. Cưới được hai năm thì ông nhập ngũ. Đây là chiếc khăn bà thêu tặng ngày ông lên đường…”.

Trường tựa đầu vào lòng bà, thấy như vọng lại từ rất xa tiếng trống trầm ngân, gọi về bao ký ức và linh hồn người đã khuất. Ngoài sân, gió lay khẽ tán cây, vài cánh ban trắng rơi xuống hiên nhẹ như hơi thở của quá khứ vừa chạm vào hiện tại.

H.M.H

Nguồn: Báo Nhân Dân

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mối hòa hiếu của hai quốc gia lân bang được bắt đầu khi Trọng Thủy bước vào thành. Chàng là một người trẻ tuổi đẹp đẽ, trong trẻo, sáng ngời như ánh dương đầu hạ. Mắt đen thăm thẳm như nước giếng mới khơi. Lưng cao, tiếng nói dịu, lễ nghi chu toàn. Kim Quy không ngờ đó là con trai Triệu Đà. Vì chàng khác hẳn sự hiểm độc của người cha. Chàng chỉ là người trần, sinh ra từ người mẹ chết sớm, lớn lên trong cung cấm nhưng đầy mộng mơ. Chàng không biết cha mình là hóa thân của kẻ thù truyền kiếp của Kim Quy. Trọng Thủy khi ấy chỉ mang một ước vọng: tìm thấy một nơi bình yên, một người con gái xinh đẹp có thể khiến chàng được sống thật với lòng mình. Chàng cũng từng kinh sợ những cuộc giao tranh, trừng phạt, giết chóc của vua cha. Rời xa vua cha cùng kinh thành là điều chàng từng mong muốn.Trọng Thủy nhận lệnh vua cha đến Loa Thành gặp Mỵ Châu nhưng chưa một lần biết mặt người con gái đó. Chàng lãng mạn tin rằng Mỵ Châu là đóa hoa đẹp nhất của đất Âu Lạc.
Xem thêm
Chùm truyện siêu ngắn của Cristina Rivera Garza
Cristina Rivera Garza sinh năm 1964, nhà văn nổi tiếng người Mexico. Sự nghiệp của bà bắt đầu được ghi nhận từ những năm 1980, khi bà đoạt giải thơ Punto de Partida năm 1984 với Apuntes, giải truyện ngắn quốc gia San Luis Potosí năm 1987 với La guerra no importa. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của Cristina Rivera Garza là Nadie me verá llorar, tác phẩm này đã mang lại cho bà Giải IMPAC/CONARTE/ITESM năm 2000. Carlos Fuentes từng gọi đây là “một trong những tiểu thuyết vừa đẹp vừa ám ảnh nhất từng được viết ở Mexico”. Năm 2024, bà đoạt giải Pulitzer cho thể loại hồi kí - tự truyện với tác phẩm El invencible verano de Liliana.
Xem thêm
Lock down – Truyện ngắn của Bùi Đế Yên.
Nhà văn Bùi Đế Yên làm thơ trước khi viết truyện ngắn. Đọc truyện của chị, tưởng chị đang ngồi thủ thỉ kể một câu chuyện vừa mới xãy ra đầy hấp dẫn, khi nghe hết chuyện, lòng ta cứ thấy bâng khuâng …
Xem thêm
Nguyền rủa - Truyện ngắn
Gia đình bà Hường chuyển về sống lam lũ với xóm nghèo. Các khu dân cư mọc lên như nấm sau mưa; lối mòn biến thành đường nhựa. Ông Tấn suốt ngày cắp laptop vợ mua, đi “quan hệ kinh doanh”; đám trẻ con tò mò kháo nhau ông không biết dùng máy vi tính.
Xem thêm
Đêm trước phiên chợ – Truyện ngắn của Lương Mỹ Hạnh
Lão Hạo không lộ mặt, ra lệnh cho tay chân nhanh chóng neo thuyền lại. Chúng lấy những đoạn dây chão to bằng cổ tay chằng buộc hai thuyền kẹp cứng với nhau. Mặt đằng đằng sát khí, hơn chục thằng cầm dao, kiếm, côn nhảy sang thuyền thằng Lanh. Một cuộc ẩu đả bất phân thắng bại nổ ra, hai bên cùng xông vào nhau đấm đá túi bụi.
Xem thêm
Tro bụi ngược chiều – Truyện ngắn Tịnh Bảo
Nắng trưa vàng như chảo mật ong tưới xuống. Nghĩa trang lớn nằm ở ngoại ô, những ngôi mộ nơi góc khuất bị cỏ dại bọc kín, bia đá lấm bụi, từng vệt bẩn kéo dài chảy xuống theo vệt nước mưa, có lẽ do cơn mưa chiều qua.
Xem thêm
Nắng chiều còn chảy – Truyện ngắn Đỗ Thanh Tuân
Trời xứ núi chuyển giông lúc nào cũng dữ dội như đón bão. Gió ầm ào. Cây rừng nghiêng ngả. Lá bay tứ tán. Mây ùn ùn về sắp đầy đầu núi, đen kịt.Chiếc xe máy chở Lan vừa chạy vừa nhảy cà tưng qua mấy ổ gà, những mỏm đá nhô cao của con đường núi thiên thẹo. Nước lùa ra đường đầy rều rác, cây bụi. Nhìn lên một bên là vách cheo leo, nhìn xuống bên kia là vực trong mưa chiều, trong cái sâu hun hút. Xa dưới kia, thác nước ào ào dội. Chốc chốc, chiếc xe dẹo mình cót két. Vậy mà bà chủ tiệm tạp hóa cứ đinh ninh là sẽ bắt cho cô chiếc xe thồ xịn nhất để vào nóc. Đúng xe núi hẳn hoi. Thiệt núi. Bà cười cố ý nhấn mạnh chữ “núi”. Xe cô, cứ để đó, khi mô trở ra thì lấy về. Dù chuẩn bị tâm lí trước nhưng Lan vẫn ngẩn người. Ở đây người ta sống bằng niềm tin. Lời nói ra xác tín như rìu chặt vào cây. Bà đưa Lan cái choàng mưa, tiện tay dúi thêm cái bao bóng lớn, nói ngó trời trong rứa chứ chút nữa thể nào cũng mưa, bỏ ba lô vào bọc ni lông cho khỏi ướt. Nhìn mớ đồ lỉnh kỉnh trong hành trang của Lan, bà cười. “Mong cái nóc Tu Mơ Rông giữ chân cô được.”
Xem thêm
Cô gái đứng trước biển Nhật Lệ - Truyện ngắn Vũ Khắc Tĩnh
Cô gái đã từng có nhiều ước mộng trong đời. Ngoài những giờ học ở trường, những lúc rảnh rỗi cô gái thích đi biển, thích đứng một mình trước biển hằng giờ ở đó, nhìn biển bình minh, mặt trời tròn vành vạnh đỏ rực lung linh, nhìn những con chim hải âu tung cánh bay dật dờ, chao nghiêng trên biển. Một buổi sáng bình minh trên biển rất đẹp, lung linh, lung linh, những đợt sóng vỗ tung toé trắng xoá. Lúc này biển đông người tắm, biển xao động tiếng cười nói của mọi người đánh tan sự im lặng, họ đùa giỡn với sóng nhấp nhô. Ai làm gì mặc kệ, cô gái vẫn đứng bất động một mình trước biển, trong đầu suy nghĩ gì không biết. Làm sao mà biết được. Tắm biển thì không bao giờ tắm. Một cô gái lạ lùng, tôi chưa từng thấy, từng gặp trường hợp này bao giờ. Đến biển, cô gái đứng nhìn biển trong tích tắc bình minh rồi về.
Xem thêm
Đoạn chi ma cước - Truyện ngắn của Châu Đăng Khoa
“Đoạn chi ma cước” dẫn người đọc vào cõi thiền – kiếm huyền bí của Edo, nơi một Ronin tật nguyền đối diện cái chết, ký ức và bản thể. Với bút pháp giàu hình ảnh và triết lý, Châu Đăng Khoa đã tạo nên một truyện ngắn độc đáo, đẹp và ám ảnh như một đường kiếm xé tuyết.
Xem thêm
Bất ngờ - Truyện ngắn của Lê Thúy Hà
Nhìn theo cô giáo trẻ lễ phép, thân thiện gửi xe chỗ ông, rồi bước đi hướng về căn phòng của lão trưởng phòng giáo dục thành phố, lòng ông Thái bỗng dấy lên nỗi bất an, “sao bây giờ vẫn còn có người đẹp tự nhiên, hương sắc mộc mạc thế, khéo lại là món mồi ngon tiếp theo của hắn rồi”. Nhưng ông đang mong muốn cơ hội này xuất hiện từng ngày, mà sao khả năng cao là đang đến, ông lại thấy lo lắng, bất an? Có phải sự mộc mạc, nhân hậu toát ra từ ánh mắt, giọng nói, con người cô giáo trẻ ấy khiến ông thấy bứt rứt.
Xem thêm
Người giữ mùa gió – Truyện Chu Phương Thảo
Con đường làng mùa hạ vẫn bụi mờ và khét nắng như thuở nào. Giữa cánh đồng khô cháy, một cậu bé gầy gò đang lom khom mò cá trong mương nước đục. Chiếc quần vá, đôi chân trần rớm máu vì gai cỏ nhưng ánh mắt sáng, kiên cường như muốn nuốt trọn cả chân trời nắng gắt.“Vũ ơi, về đi con, trưa rồi! Mẹ nấu cơm xong hết rồi đó!” Tiếng người phụ nữ gầy yếu gọi vọng từ xa, lạc giữa gió Lào bỏng rát. Cậu bé quay lại, cười toe toét:“Con bắt thêm con cá nữa thôi mẹ ơi! Tối nay mình có canh cá ăn nha!”
Xem thêm
“Quyền năng của người lớn” – Truyện ngắn Nguyễn Bình An
Giấc ngủ trưa của tôi bị phá tan bằng một thứ âm thanh làm tôi giật thót mình - tiếng mẹ chửi con.Mày đi khỏi nhà tao! Tại sao mày uống ca cà phê mà không dẹp? Đợi tao dẹp ha gì? Tao là mẹ mày hay ở đợ cho mày? Nội dung câu chửi cũng không đến mức khủng khiếp. Nhưng cái giọng chửi thì đáng kinh. Nó the thé, hoằm hoặm. Đó là tiếng chửi mà Bích trút xuống đứa con trai mới tám tuổi của mình - thằng Long. Long ngồi thu mình lại sát góc nhà. Hai tay như đang cố bịt tai. Hai chân dạng, lưng ngả ra sau tìm điểm tựa nơi vách nhà. Mắt mở thao láo, vô hồn. Dù cây cần nước để sống. Nhưng Long như một cây non quằn quại dưới làn nước mạnh liên tục dội tạt vào. Nó oặt mình đi. Bà mẹ trẻ đang dạy con hay đang trút hằn học trong người? Dũng - chồng Bích - đi làm gần hai tháng nay chưa thấy gửi tiền về. Những cuộc điện thoại của Bích gọi đi trong nước mắt nhưng Dũng luôn đáp lại bằng sự hững hờ.
Xem thêm
Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
Lý do trở về cửa biển nầy của chị là gì?. Mỏi gối chồn chân hay hương tàn sắc nhạt?, nhớ cố hương hay lương tâm lên tiếng?, chính chị cũng không trả lời thỏa đáng. Cũng có thể là tất cả những cái đó thôi thúc chị về quê. Chỉ biết rằng sau những đau khổ chất chồng, sau những tháng ngày bon chen ở đất Sài Gòn, nay chị về vùng U Minh Hạ nầy nương nhờ nhà vợ chồng đứa cháu để sống qua ngày với nghề buôn bán cá khô.
Xem thêm
Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Chiều ở Loa Thành lặng như tờ giấy đã ố màu. Không tiếng người. Không bóng ai. Chỉ gió thổi cỏ lau nghiêng ngả, cuốn theo mùi đất xưa lẫn với mùi tro tàn cổ tích.
Xem thêm
Lời hứa - Truyện cực ngắn của Lê Thanh Huyền
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 41 tháng 10/2025.
Xem thêm
Ký ức tuổi thơ tôi – Truyện ngắn Vũ Mạnh Định
Có một miền quê nằm bên dòng Hoàng Long lặng lẽ, nơi triền bãi xanh mướt ôm lấy con nước hiền hòa, nơi mỗi chiều vang lên tiếng chuông chùa Thông Linh Tự và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa rợp ngõ. Ấy là quê tôi - thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội, bằng mùi khói rơm chiều và những câu chuyện lịch sử vọng về từ ngàn xưa.
Xem thêm
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc.
Xem thêm
Trạm xá - Truyện Võ Đào Phương Trâm
Đồng hồ bước qua 7 giờ tối, bên ngoài khuôn viên Trạm xá tối om như mực, bác sĩ Nguyên vẫn còn miệt mài với chồng hồ sơ bệnh án, thỉnh thoảng, anh khẽ ngước mặt nhìn ra khung cửa, từng đợt gió thổi nhẹ mang theo chút mùi hương hoa rừng.
Xem thêm
Bông hoa của bản – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Tiếng khóc thút thít của Mai vọng từ phía buồng lại, xóa tan sự tĩnh lặng của đêm. Páo ngồi bên bếp, nồi nước đang sôi ùng ục bốc khói, tay Páo cầm thanh củi cời những viên than hồng rực, ánh mắt vô định nhìn những ngọn lửa bập bùng cháy cũng như lòng Páo lúc này đang không yên. Páo muốn đi vào trong phòng Mai, nói với Mai rằng hãy đứng dậy và bỏ đi cùng anh. Hãy bỏ lại tất cả cuộc sống hiện tại để đến một nơi khác bắt đầu cuộc sống mới như đôi chim cu tự xây tổ mới cho mình, như đôi hoẵng chạy vào rừng sâu sống cuộc sống yên bình... Từ nhỏ Páo đã chứng kiến Mai khổ quá rồi, giờ nếu tiếp tục để Mai chịu khổ hơn nữa anh thấy mình càng vô dụng như khúc gỗ dưới sàn nhà, như cây lá han trong rừng.
Xem thêm