- Tư liệu văn học
- Chiến thắng Điện Biên Phủ: Bản lĩnh, trí tuệ, sức mạnh đại đoàn kết
Chiến thắng Điện Biên Phủ: Bản lĩnh, trí tuệ, sức mạnh đại đoàn kết
Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang chín năm cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, anh dũng của quân và dân cả nước ta chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ thể hiện bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam; là sự kết hợp tài tình các nhân tố tạo nên trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử đương đại”- Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Đức Hải, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng/Bộ Quốc phòng, khái quát tầm vóc, ý nghĩa trong chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, cách đây 70 năm (7-5-1954 và 7-5-2024)
Buộc Pháp căng quân đối phó nhiều hướng
. Thưa trung tướng, chúng ta đã làm gì đã làm gì để phân rã khối cơ động chiến lược của Pháp ở ba nước Đông Dương khi ấy?
Thực hiện kế hoạch tác chiến Đông Xuân (1953 – 1954). Ta đã chủ động lần lượt tổ chức các chiến dịch khắp chiến trường ba nước Đông Dương.
Đó là sự phối hợp với mặt trận chính vùng sau lưng địch, phong trào du kích phát triển mạnh ở Nam bộ, Nam Trung bộ, Bình – Trị – Thiên, đồng bằng Bắc bộ. Từ đó, căng kéo buộc khối cơ động chiến lược Pháp phân tán, đối phó trên nhiều hướng.
Tại thượng Lào, Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào mở chiến dịch quy mô lớn, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm địch ở Sầm Nưa, giải phóng một vùng rộng lớn, tạo điều kiện cho lực lượng của bạn củng cố và phát triển.
Hướng Tây Nguyên, để đánh bại cuộc hành binh Át – Lăng (Atlante) một phần của bước một kế hoạch Nava, Khu uỷ Khu V quyết định mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Mục tiêu của chiến dịch này là kiểm soát được thị xã Kon Tum và một số vị trí chiến lược quan trọng tại Bắc Tây Nguyên, buộc Nava phải bỏ dở cuộc hành quân Át – Lăng. Đồng thời, rút lực lượng lên ứng cứu cho Tây Nguyên khiến kế hoạch tập trung binh lực của Pháp bị phá vỡ.
Điểm nổi bật trong chỉ đạo tác chiến chiến lược Đông Xuân là sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân du kích; giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy; phối hợp nhịp nhàng giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch; giữa chiến trường miền Bắc với chiến trường miền Trung và miền Nam; giữa các hướng chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương.
Thắng lợi Kon Tum là một thắng lợi to lớn của ta trên chiến trường miền Nam, nó cũng là một trong những thắng lợi to lớn của ta trong mùa Xuân này trên chiến trường toàn quốc.
Viện lịch sử Đảng – Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến, Nam Trung Bộ kháng chiến 1945 – 1975, Hà Nội 1992.
Nhà báo Pháp đã nhận xét: “Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Nava mà chính là những chiếc xe đạp thồ 200, 300 kí hàng và đẩy bằng sức người,...". Ảnh tư liệu
Từ Tây Bắc, liên khu 3, Tả Ngạn, Bình Trị Thiên, liên khu 5, Nam Bộ, khắp nơi đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, kết hợp quần chúng đấu tranh chính trị, phá tề, trừ gian, binh địch vận, buộc Pháp luôn phải phân tán lực lượng đối phó. Công tác bảo đảm hậu cần – kỹ thuật dài ngày, quy mô lớn.
Chia cắt khiến địch luôn căng thẳng, suy sụp
.Tài thao lược, cầm quân của đại tướng Võ Nguyễn Giáp được thể hiện như thế nào khi Bác hoàn toàn tin tưởng giao phó?
+ Trên cơ sở phân tích, đánh giá, dự báo chiều hướng phát triển của địch, với cương vị Tổng Tư lệnh được giao làm chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ điều Bác dặn: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận. Tướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định “và” trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”.
Đây cũng là bước ngoặt về công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, khắc phục khó khăn, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, tri thức khoa học về nghệ thuật quân sự gắn với bản lĩnh chính trị sắc sảo, lòng trung thành với Tổ quốc.
.Vốn liếng của ta khi đó còn "mỏng" cả về thực lực và thực binh, tại sao chúng ta từ chỗ “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” sang đánh thẳng vào “pháo đài bất khả xâm phạm” - tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?
+ Đó là quá trình chuyển hoá từ tư duy “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” sang đánh thẳng vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng có nhiều sơ hở của địch. Từ tác chiến vận động và công kiên nhỏ, sang đánh công kiên quy mô lớn; từ chọn nơi sơ hở của địch mà đánh, đến quyết định đánh vào chỗ mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ.
Từ đánh công kiên các trận Him Lam (13-3-1954); Độc Lập (đêm 14 rạng sáng 15-3-1954), đồi A1, C1,… đến các trận chiến đấu phòng ngự trận địa C1, A1, sân bay Mường Thanh,… các trận “vây lấn” chia cắt địch, làm cho địch luôn ở trong trạng thái căng thẳng, suy sụp.
Với nhãn quan quân sự sắc sảo, sau khi xem xét đánh giá kỹ tình hình, tạo sự đồng thuận của tập thể Đảng uỷ, đại tướng kết luận: Đánh theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” nhất định thất bại và quyết định chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Kết luận này thể hiện tính quyết đoán, sáng tạo, bản lĩnh, trách nhiệm trước thắng lợi của chiến dịch và xương máu của đồng bào, chiến sĩ tham gia chiến dịch.
Pháo đài Điện Biên Phủ “nghiền nát” bộ đội chủ lực?
. Như vậy, đánh thẳng vào tập đoàn cứ điểm, chứng tỏ tướng Giáp đã chủ động lựa chọn chiến trường, quyết giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ?
+ Chiến trường Điện Biên Phủ từ chỗ không có trong kế hoạch Nava, nhưng trước các đòn tiến công của ta buộc thực dân Pháp phải huy động một lực lượng lớn binh lực để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương - “một pháo đài bất khả xâm phạm” gồm hệ thống công sự, boongke, hầm đào, hoả lực cả mặt đất và trên không nhằm “nghiền nát” chủ lực của ta.
Sau khi nghiên cứu, đánh giá tình hình các mặt trong chiến cuộc Đông Xuân, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định chọn hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Tây Bắc, nhằm kéo quân chủ lực của địch lên khu vực này vào những nơi không có lợi về địa hình, triển khai lực lượng và khả năng chi viện bởi Trung ương đã nhìn nhận điểm yếu trong kế hoạch Nava là chúng muốn tập trung mọi nỗ lực để tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta.
Khi ta sử dụng Đại đoàn 316 và Trung đoàn 48 tác chiến ở Lai Châu, thực dân Pháp vội vàng cơ động lực lượng, đổ 6 tiểu đoàn viễn chinh xuống Điện Biên Phủ nhằm ngăn chặn lực lượng chủ lực của ta. Đây là địa bàn tác chiến ta có khả năng phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
Mặc dù là tập đoàn cứ điểm mạnh của địch, nhưng địa hình nằm gọn trong thung lũng, khí hậu khắc nghiệt, đường sá, giao thông vận chuyển tiếp tế của địch chủ yếu dựa vào đường không, xa hậu phương. Khi chúng ta đánh vào lực lượng mạnh nhất của địch, thắng lợi trận chiến sẽ có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến tranh.
Ta chủ động lựa chọn chiến trường tác chiến quyết định thực hiện trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Sau quá trình dụ địch, bao vây, kìm hãm trong khu vực dự kiến. Để chắc thắng, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã sử dụng lực lượng tác chiến ưu thế hơn địch bao gồm 5 Đại đoàn (308, 312, 316, 304 và Đại đoàn công – pháo 351), 2 Trung đoàn pháo binh (45, 675); Trung đoàn pháo cao xạ 367, Tiểu đoàn hoả tiễn (H6 sáu nòng); Tiểu đoàn DKZ 75mm và súng cối 82mm, 4 đại đội súng cối 120mm; 715 xe ô tô với lực lượng gần 10 vạn người (cả bộ đội, dân công và các lực lượng khác).
Nhà báo Pháp Giuyn đã nhận xét: “Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Nava mà chính là những chiếc xe đạp thồ 200, 300 kí hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm ni lông. Cái đã đánh bại tướng Nava, không phải là phương tiện mà là sự bản lĩnh, trí thông minh và ý chí của đối phương”.
Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang chín năm cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, anh dũng của quân và dân cả nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của Mỹ. Đây là niềm tự hào dân tộc để toàn quân, toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Buộc thực dân Pháp ký hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình tại các nước Đông Dương. Khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng, sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cả trên phạm vi toàn thế giới, cổ vũ các nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập.
Chiến thắng Điện Biên Phủ trước hết khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài thao lược của Bộ Chỉ huy chiến dịch; tài năng, trí tuệ, tính quyết đoán sáng tạo của vị Tổng Tư lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Xin cảm ơn Trung tướng.
Ba đợt tiến công đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ
Đợt 1 (13 đến 17-3), tiến công địch chiếm trung tâm đề kháng Him Lam, phân khu trung tâm, sân bay, các trận địa pháo và kho tàng của địch, tiêu diệt dứt điểm từng cụm mục tiêu vòng ngoài.
Đợt 2 (30-3 đến 30-4), sử dụng lực lượng chốt điểm, vây lấn, chia cắt, cô lập từng cứ điểm, cụm cứ điểm, siết chặt vòng vây vào trong, chia cắt sân bay Mường Thanh, cắt đứt đường hàng không của địch.
Đợt 3 tập trung lực lượng tổng công kích giành thắng lợi, phát hiện tình huống đột biến trên chiến trường.
Nguồn: PHONG ĐIỀN (thực hiện)/ https://plo.vn/
MỘT VÀI HÌNH ẢNH VỀ TRUNG TƯỚNG, PGS, TS NGUYỄN ĐỨC HẢI TRONG CHUYẾN THĂM TRẠI SÁNG TÁC VĂN HỌC TẠI PHÚ YÊN CỦA HỘI NHÀ VĂN TP. HỒ CHÍ MINH
(Khai mạc Trại viết; Thăm trúc lâm Thiền tự; Viếng thăm Nhà thờ Bác Hồ)