- Tư liệu văn học
- Ký ức chiến tranh nhìn từ lăng kính nữ
Ký ức chiến tranh nhìn từ lăng kính nữ
Chiến tranh không khép lại vào năm 1975 mà tiếp tục vang vọng trong ký ức của những thế hệ di cư. Với thế hệ 1.5, ký ức ấy không đến từ trải nghiệm trực tiếp mà được truyền qua lời kể của mẹ, của bà, của những thân thể mang thương tích lịch sử. Trong Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong không chỉ viết lại ký ức chiến tranh từ bên lề, mà còn khẳng định quyền được kể chuyện của những người từng bị câm lặng. Văn chương, từ đó, trở thành không gian của đối thoại, của tự chữa lành và giành lại bản sắc.
Chiến tranh Việt Nam không chỉ để lại những vết tích trên thân thể của một quốc gia, mà còn khắc sâu trong ký ức của hàng triệu con người, đặc biệt là những người buộc phải rời bỏ quê hương sau biến cố năm 1975. Đối với cộng đồng người Việt di cư, bi kịch chiến tranh không kết thúc khi họ đặt chân đến vùng đất mới, mà vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng: trong tâm trí, trong ngôn ngữ, trong sự im lặng, và trong những câu chuyện được truyền lại qua nhiều thế hệ. Trong bối cảnh đó, văn học di dân trở thành một không gian để khơi dậy và diễn giải những ký ức bị lãng quên, bị che lấp bởi các diễn ngôn chính thống. Hai tác phẩm tiêu biểu cho xu hướng này là truyện ngắn Những người đàn bà mắt đen của Viet Thanh Nguyen và tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian của Ocean Vuong. Dù khác biệt về phong cách nghệ thuật, cả hai đều cùng hướng đến việc tái hiện chiến tranh Việt Nam từ góc nhìn cá nhân, không anh hùng, không chính danh. Qua đó, chiến tranh hiện lên như một thực thể phức tạp, để lại tổn thương không chỉ cho người dân trong nước mà còn cho cộng đồng người Việt di cư, những con người thường xuyên bị gạt ra ngoài lề lịch sử, bị lãng quên trong ký ức tập thể.
Tác giả Ocean Vuong. Ảnh: Waterstones.
Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong đều thuộc thế hệ di cư 1.5 – những cá nhân rời khỏi miền Nam Việt Nam khi còn nhỏ và trưởng thành tại Hoa Kỳ, mang theo mình không chỉ những ký ức mơ hồ về một quê hương đã khuất dạng, mà còn cả di sản của chiến tranh cùng những va đập văn hóa trong hành trình hòa nhập vào xã hội Mỹ. Đây là một thế hệ đặc biệt, tuy không trực tiếp trải qua chiến tranh, nhưng họ vẫn sống trong cái bóng kéo dài của nó qua lời kể, qua sự im lặng, và đặc biệt là qua những ký ức đau thương được truyền lại từ thế hệ trước, mà tiêu biểu là hình ảnh của những người phụ nữ trong gia đình.
Trong truyện ngắn Những người đàn bà mắt đen và tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, cả hai nhà văn đều lựa chọn ngôi kể thứ nhất, để nhân vật “tôi” tái hiện hành trình sống trong thân phận di dân, là những đứa trẻ theo gia đình vượt qua hiểm nguy để đến một miền đất hứa mới. Chiến tranh, trong mắt họ, không được ghi nhớ bằng kinh nghiệm trực tiếp, mà qua ký ức kế thừa từ mẹ và bà – những người phụ nữ không chỉ là nhân chứng sống, mà còn là người gìn giữ và truyền tải lịch sử bằng ngôn ngữ cảm xúc. Chính từ nguồn ký ức quý giá ấy, thế hệ di cư 1.5 đã hình thành một cái nhìn riêng, giàu tính phản tư về chiến tranh – một cái nhìn “đúng đắn”, để “kể lại câu chuyện ‘đúng đắn’ về về chiến tranh Việt Nam so với diễn ngôn đã và đang phổ biến ở Mỹ, do văn học và điện ảnh Mỹ tạo ra”[1]. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Anh, diễn ngôn của Mỹ là: “Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến giữa Mỹ và Bắc Việt, không có (hay bị xóa bỏ) vai trò của miền Nam Việt Nam vốn là đồng minh của Mỹ; dẫn đến hệ quả, hình ảnh chủ đạo của người Việt trong mắt người Mỹ chỉ còn là “kẻ thù” ở bên kia chiến tuyến”[2]. Thực tế, Ocean Vuong và Viet Thanh Nguyen, thông qua những câu chuyện của ngoại Lan, của mẹ Hồng (trong Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian) hay người mẹ và người anh của nhân vật tôi (trong Những người đàn bà mắt đen) muốn cho người đọc, nhất là người đọc Mỹ thấy: chiến tranh là kẻ thù của tất cả mọi người, chiến tranh sẽ để lại nhiều đau thương mà không ai có thể xoa dịu được, kể cả với người Mỹ, với người Việt (dù ở Bắc Việt hay bất cứ đâu trên đất Việt), và với cả đồng minh của Mỹ:
“...Những cư dân kiên trì ở lại mảnh đất của chúng tôi, theo lời kể, có cả nửa thân trên của một trung úy Đại Hàn, bị mìn tống bay lên mấy nhánh cây cao su; một gã Mỹ da đen bị lột da đầu nổi lềnh bềnh dưới một con rạch không xa chỗ chiếc trực thăng rơi, đôi mắt và khối bán nguyệt của bộ óc gã lộ ra, lấp lánh trên mặt nước; một binh nhì Nhật bị chặt đầu mò mẫm trong những bụi khoai mì để tìm lại cái đầu. Những kẻ xâm lăng đó đến chiếm mảnh đất của chúng tôi và chẳng thể trở về quê nhà được nữa, mấy bà già kể, cười khùng khục và phô hàm răng nhuộm đen, hoặc anh tôi kể lại thế.”[3]
Lời kể dân gian ở trên cùng với “cái cười khùng khục phô hàm răng nhuộm đen” trong lời kể của Viet Thanh Nguyen đã tạo ra một góc nhìn bản địa mang tính đối thoại đầy tự tin, nơi người Việt không còn là “kẻ yếu thế” mà trở thành những người sở hữu đất đai, ký ức và lịch sử của mình. Sự lồng ghép giữa lời kể của mấy bà già với sự hồi tưởng của người anh đã làm mờ ranh giới giữa ký ức cá nhân và ký ức tập thể, giữa sự thật lịch sử cùng cảm nhận cá nhân. Thông qua lối tường thuật này, Viet Thanh Nguyen đã phá vỡ tính đơn tuyến của diễn ngôn lịch sử Mỹ hóa về cuộc chiến tranh Việt Nam đồng thời tạo ra một cái nhìn mới từ chính những người bước ra khỏi cuộc chiến ấy, dù tâm thế của họ rất đặc biệt và khác biệt.
Ký ức là sự chọn lựa, cái chết thực sự của con người sẽ xảy ra khi người ta rơi vào vùng quên lãng. Người mẹ trong Những người đàn bà mắt đen hiện lên như nhân vật trung tâm lưu giữ ký ức gia đình. Đối lập với cô con gái – người cố gắng thoát khỏi quá khứ bằng cách quên lãng hoặc phủ nhận những bi kịch từng xảy ra, người mẹ chấp nhận những bi kịch xảy đến như một phần không thể tách rời của đời sống. Đối với bà, những ký ức đó không phải là gánh nặng, mà là minh chứng cho sự tồn tại. Nỗi đau chiến tranh hiện diện dai dẳng qua lời kể của bà và qua những “bóng ma” luôn hiện hữu xung quanh hai mẹ con. Dẫu không trực tiếp phát ngôn chính trị, khát vọng của người mẹ về một cuộc sống yên bình vẫn hiện rõ trong một chi tiết nhỏ nhưng đầy ám ảnh, khi xem phim Hàn Quốc, bà đã tâm sự với con gái mình rằng: “Nếu không có chiến tranh xảy ra, mình chắc giống Hàn Quốc ngày nay. Sài Gòn sẽ là Seoul, ba tụi bay còn sống, mày có chồng có con, còn tao là bà nội trợ nghỉ hưu, chứ đâu phải thợ làm móng.”[4] Đằng sau lời nhận xét tưởng chừng giản đơn là một giấc mơ bị đánh cắp – giấc mơ về một cuộc sống bình thường, nơi chiến tranh không tàn phá số phận cá nhân.
Nhà văn Viet Thanh Nguyen. Ảnh: 972mag.
Chiến tranh trong mắt người mẹ không chỉ là cái chết mà còn là những cuộc chia ly không có ngày trở lại. Và ngay cả khi có hội ngộ, nó cũng là một nỗi đau khác. Câu chuyện người mẹ kể về người phụ nữ tái hôn sau chiến tranh rồi bỗng nhiên gặp lại người chồng cũ tưởng đã chết – là một nỗi bi kịch không nằm ở cái mất, mà ở sự trở về sai thời điểm: “Má tôi cho tôi coi một bài viết cắt ra từ báo để làm bằng chứng, với một bức ảnh chụp bà ấy với người chồng trước, gặp lại nhau ở phi trường mấy năm trước. Cái nhìn của họ không gặp nhau. Họ trông rụt rè kém thoải mái, lẻ loi, đứng giữa những bạn bè và phóng viên vốn không thấy được hai hồn ma cũng có mặt tại buổi gặp gỡ nản lòng đó, những cái bóng bản ngã nhòe nhoẹt của họ”[5]. Ở đó, Viet Thanh Nguyen không chỉ ghi nhận sự tàn bạo của chiến tranh về thể xác, mà còn là sự đổ vỡ trong chiều sâu tình cảm, làm hoen mờ mọi mong đợi về một cuộc sống có thể trở lại như xưa.
Trong khi đó, Ocean Vuong lại khai thác sâu sắc mối liên hệ giữa ký ức chiến tranh và thân thể, ngôn ngữ, đồng thời mở rộng góc nhìn về giới tính và bản dạng. Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian kể lại câu chuyện qua giọng kể đầy chất thơ, ám ảnh của Chó Con – một cậu bé đồng tính di cư, sống trong sự giao thoa của nhiều bi kịch lịch sử và cá nhân. Chiến tranh trong tác phẩm không hiện lên qua những trận đánh khốc liệt, mà là vết thương rỉ máu thầm lặng trên từng chi tiết nhỏ nhất của đời sống: từ mùi thuốc lá, những vết bầm trên tay cho đến sự im lặng ngột ngạt trong bữa cơm gia đình. Câu chuyện là sự hòa quyện giữa ký ức cá nhân và ký ức gia đình trong bối cảnh hậu chiến.
Hai nhân vật trung tâm mẹ Hồng và ngoại Lan hiện lên như những điển hình của sang chấn tâm lý hậu chiến. Trong đó, ngoại Lan – người bà đầy mâu thuẫn và đau đớn được khắc họa bằng những biểu hiện rất cụ thể của chứng rối loạn tâm thần, như chính lời tự sự của nhân vật Chó Con: “một bộ não cuồng loạn và bùng nổ suốt những giờ khắc tỉnh”[6], “vốn không bao giờ dứt càm ràm huyên thuyên bởi chứng tâm thần phân liệt, chỉ càng nặng thêm kể từ sau chiến tranh”[7]. Những vết thương chiến tranh không chỉ để lại trên phương diện tâm lý, mà còn in hằn lên cơ thể, thân thể bà trở thành một thứ ký ức sống: “toàn bộ cơ thể nữa, gồm cả cơ bắp, khớp và tư thế. Lưng ngoại Lan vĩnh viễn còng”[8]. Ngoại Lan trong tiểu thuyết là một kho tàng chuyện kể – người giữ ký ức chiến tranh, nhưng đồng thời cũng là người mang thương tích từ chính ký ức ấy. Qua lời kể của bà, người đọc được dẫn trở lại thời thanh xuân khốn khổ của một cô gái nông thôn không có nổi một cái tên đẹp, phải kết hôn với người đàn ông hơn mình gần ba lần tuổi trong một cuộc hôn nhân không tình yêu, và sau đó bị mẹ đẻ từ chối khi quay về nhà với lời miệt thị “Gái không chồng như rác như rơm”[9]. Những bi kịch nối tiếp nhau dẫn bà đến bước đường cùng: trở thành gái mại dâm cho lính Mỹ nghỉ phép – một hành động không xuất phát từ dục vọng mà từ tuyệt vọng, để có tiền nuôi con sau khi dứt bỏ cuộc hôn nhân áp bức. Trong quá trình kể chuyện cho Chó Con, nhiều khi bà như “lạc lối” vào chính câu chuyện của mình, những lời dặn dò vụn vặt và khó hiểu dành cho một đứa trẻ lại phơi bày những vết rách ký ức chưa từng lành lại. Sự lạc lối đó không chỉ cho thấy một tâm trí bị phân mảnh mà còn là minh chứng cho sang chấn chiến tranh – thứ không chấm dứt khi tiếng súng ngừng nổ, mà tiếp tục ám ảnh người sống dưới hình thức những bóng ma ký ức, theo họ đến cuối đời.
Mặc dù chiến tranh Việt Nam đã chính thức chấm dứt vào năm 1975, song những di chứng của nó vẫn tiếp tục hiện diện trong đời sống xã hội và tâm thức con người Việt Nam. Một trong những hệ quả kéo dài và nhức nhối nhất là sự xuất hiện của thế hệ con lai – những đứa trẻ được sinh ra từ mối quan hệ giữa binh lính Mỹ và phụ nữ Việt trong thời kỳ chiến tranh. Sự hiện diện của họ là minh chứng sống động cho một cuộc chiến tranh phi lý và đầy bi kịch. Những đứa trẻ ấy, vốn không được mong đợi ngay từ khi sinh ra, đã phải gánh chịu những tổn thương nặng nề về cả thể xác lẫn tinh thần. Nỗi đau của những đứa trẻ lai đã được tái hiện rõ nét qua hình tượng người mẹ của nhân vật Chó Con: mẹ Hồng, hay còn được biết đến với cái tên Rose. Cô là một đứa con lai Việt - Mỹ, kết quả của một lần mua bán dâm của mẹ và một người lính Mỹ mà bà chẳng nhớ tên. Mẹ Hồng với ngoại hình khác biệt đã bị kỳ thị bởi đại đa số những người dân Việt xung quanh bà. Bà bị những đứa trẻ khác gọi là “cô bé ma”[10], bị chúng “cắt mái tóc ánh sắc nâu”[11], “trét cứt trâu lên mặt lên vai”[12] hay “cầm muỗng cạo vào tay”[13], khiến cho mẹ Hồng sợ hãi phải học cách bơi và ngụp lặn xuống dòng sông sâu, trốn tránh những hành động bạo lực, sự kỳ thị, dè bỉu của họ. Tuy nhiên, cuộc sống của cô cũng không khá hơn khi gia đình di cư sang Mỹ. Mảnh đất lạ là bà mẹ ghẻ, sự bất toàn của mẹ Hồng càng trở nên rõ nét khi cô sinh sống ở Xứ Cờ Hoa: cô không nói được tiếng Anh, không thể thích nghi, không cảm thấy thuộc về dù mang một nửa dòng máu Mỹ trong huyết quản. Chính điều đó cho thấy sự lai ghép không đảm bảo cho việc được chấp nhận ở bất kỳ nền văn hóa nào, khiến mẹ Hồng trở thành một thân phận “lưu vong kép” – vừa bị từ chối ở quê hương cũ, vừa không thể hòa nhập ở vùng đất mới. Sự ám ảnh về bản sắc lai tiếp tục bám riết lấy mẹ Chó Con trong đời sống thường nhật, đến mức trong một lần xem truyền hình, cô đặc biệt chú ý đến việc người ta nhắc đến màu da của vận động viên thể thao Tiger Woods – một người cũng mang dòng máu pha trộn. Khoảnh khắc ấy không đơn thuần là sự quan tâm đến người nổi tiếng, mà là biểu hiện của một nỗi ám ảnh sâu sắc về căn tính bị chia cắt, một mặc cảm kéo dài từ chiến tranh, qua thân phận cá nhân, đến trải nghiệm văn hóa – nơi con người luôn phải vật lộn để tự định nghĩa chính mình giữa hai bờ Đông – Tây.
Dẫu tồn tại những khác biệt về giọng điệu và cách tiếp cận, Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian vẫn gặp nhau ở nhiều điểm chung đáng chú ý, đặc biệt là trong cách cả hai tác phẩm khắc họa hệ quả tâm lý lâu dài của chiến tranh trên những cơ thể và tâm trí tưởng chừng đã thoát khỏi vùng lửa đạn. Không chỉ được nghe kể về chiến tranh, nhân vật Chó Con trong tiểu thuyết của Ocean Vuong còn phải sống trong dư chấn của nó mỗi ngày qua những sang chấn của ngoại và mẹ – những người phụ nữ tưởng như đã bước ra khỏi quá khứ, nhưng vẫn bị quá khứ đó giam giữ. Chứng rối loạn tâm thần của bà ngoại Lan được khắc họa rõ nhất trong một lần mừng Quốc khánh Mỹ, khi tiếng pháo hoa vang lên khiến bà ngỡ là tiếng súng biệt kích. Trong cơn hoảng loạn, bà “quỳ gối, cào điên cuồng trên đống mền”[14], “rồi kéo cháu lại gần”[15], “cúi người, co cụm dưới bệ cửa, lắng nghe tiếng nổ vang vọng trên đầu”[16]. Với bà, âm thanh đó không phải là biểu tượng cho tự do như người Mỹ vẫn tin, mà là hồi chuông đánh thức ký ức chiến tranh chưa bao giờ yên lặng. Tương tự, mẹ Hồng – người cũng mang nhiều vết thương lòng từ quá khứ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng sợ khi nghe tiếng súng săn, lầm tưởng đó là tiếng súng truy lùng. Những ám ảnh chiến tranh thúc đẩy bà lao vào cuộc mưu sinh đến kiệt quệ, không chỉ để nuôi con mà còn để xây một căn hầm trú ẩn – như một hành vi phản xạ sinh tồn trước cảm giác bất an triền miên. Với mẹ Hồng, chấn thương không chỉ tái hiện qua những ảo giác bừng lên khi bất chợt bắt gặp một tia lửa, một tiếng súng, hay một cú nhào lượn của máy bay – những dấu hiệu gợi nhớ ký ức mà còn biến tướng thành hành vi bạo lực. Những đòn roi, những cái bạt tai, những cơn giận dữ không kiểm soát… tất cả trút xuống đầu Chó Con – đứa trẻ tội nghiệp trở thành nơi hứng chịu những “cơn mưa bạt tay”[17], những “cơn bão mẹ”[18] tưởng chừng không có hồi kết. Sang chấn không chỉ là một vết thương cá nhân, mà còn trở thành thứ di truyền thầm lặng – truyền từ người này sang người khác, từ bà sang mẹ, từ mẹ sang con. Trong Những người đàn bà mắt đen, nhân vật người con gái, giờ đây sống ở Mỹ, khi nhớ về quê hương mình đã không ngần ngại gọi đó là “xứ sở ma ám”[19], xứ sở mà cô chỉ có những trải nghiệm rất ít ỏi được dệt nên từ ký ức non nớt của tuổi thơ và những câu chuyện của người mẹ, người anh - hầu hết đều là những câu chuyện ma. Đó là những trải nghiệm thời thơ ấu khi cùng mẹ và anh trai chui xuống hầm trú ẩn để tránh bom đạn, tránh máy bay, anh trai đã giúp cô tạm quên đi máy bay đang gào rú trên hầm nhờ những câu chuyện hoang đường, chuyện dân gian và dăm ba lời đồn đại và cả những câu chuyện ma. Mẹ cô, bất cứ lúc nào trong ngày chỉ có hai mẹ con, đều kể cho cô câu chuyện về hồn ma của người dì ruột mất sớm, hồn ma của người anh, của những người bà quen biết… Tất cả trở thành một phần ký ức không thể xóa nhòa. Đó không chỉ là nỗi sợ, mà còn là một thứ di sản bóng tối mà người tị nạn chiến tranh phải mang theo khi bước vào cuộc sống mới.
Đau thương nào rồi cũng sẽ phải qua đi. Trong sự hủy diệt luôn tồn tại khả thể hồi sinh – như một bản năng sống còn của con người sau mọi tàn phá. Chiến tranh Việt Nam, qua lăng kính của thế hệ người Việt di cư 1.5 như Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong, không còn là một thực thể tuyệt đối đen tối hay chỉ gắn liền với cái chết, mà được nhìn nhận bằng sự bình tĩnh và lý trí hơn so với thế hệ cha mẹ, ông bà của họ. Thay vì né tránh quá khứ, những nhân vật trung tâm trong Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ nhân gian đã lựa chọn đối diện, thậm chí là chuyển hóa nỗi đau thành hành động sáng tạo, như một cách giành lại quyền kiểm soát ký ức cho chính mình.
Trong Những người đàn bà mắt đen, phần kết của truyện ngắn cho thấy một khoảnh khắc mang tính bước ngoặt: cô gái – nhân vật “tôi” – từng là người viết thuê (ghostwriter) cho kẻ khác quyết định dừng công việc vô danh ấy để viết một cuốn tự truyện cho chính mình. Đó không chỉ là hành động khẳng định tiếng nói cá nhân, mà còn là sự đối mặt trực diện với lịch sử tổn thương mà cô và gia đình từng trải qua. Viết là một hành vi trị liệu, một hành động đòi lại quyền kể chuyện vốn bị tước đoạt khỏi tay những kẻ nắm giữ diễn ngôn chính thống. Với Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Chó Con cũng lựa chọn viết – nhưng không phải để tố cáo hay truy nguyên nguồn cơn của bi kịch, mà để tái định nghĩa sự tồn tại của chính mình. Trong một trong những đoạn văn xúc động và đẹp nhất của tác phẩm, cậu viết: “Suốt thời gian qua con tự nhủ mẹ con mình sinh ra từ chiến tranh – nhưng con nhầm rồi mẹ à. Mình sinh ra từ cái đẹp”[20]. Lời khẳng định ấy là một bước chuyển quan trọng trong hành trình chữa lành: không phủ nhận nỗi đau, nhưng cũng không để mình bị định danh vĩnh viễn bởi nó. Với Chó Con, ký ức chiến tranh không bị xóa bỏ, mà được chuyển hóa – từ vết thương trở thành thơ ca, từ bóng tối thành ánh sáng của tình yêu và cái đẹp. Viết cũng là cách duy nhất mà Chó Con có thể trung thực với chính mình, an ủi và “hòa giải” với chính mình, đồng thời giữ nguyên vẹn không gian của tình cảm. Trong giới hạn của ký ức, ngôn ngữ và thời đại, hành động viết ấy trở thành một nỗ lực cảm động để kết nối, để nói thay những điều không thể nói và để tự cứu lấy chính mình khỏi sự lãng quên.
Những người đàn bà mắt đen và Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian không chỉ kể lại ký ức chiến tranh, mà còn là hành động giành lại tiếng nói cho những thân phận từng bị đẩy ra bên lề lịch sử. Qua lựa chọn ngôn ngữ, hình tượng và giọng điệu cá nhân hóa, Viet Thanh Nguyen và Ocean Vuong đã phá vỡ hình ảnh “thiểu số kiểu mẫu”[21], thay vào đó là những con người bất toàn nhưng chân thật – mang ‘vết thương’, nhưng cũng mang khát vọng được tồn tại và được kể. Trong thế giới hậu chiến và hậu thuộc địa, khi lịch sử thường được viết bởi kẻ mạnh, thì việc họ viết và viết về mình chính là một hình thức ‘tự hiện diện’ bền bỉ và đầy nhân phẩm. Đặc biệt hơn khi sự ‘tự hiện diện’ ấy được đặt vào ngòi bút của những người kể chuyện nữ hoặc những nhân vật kể những câu chuyện được ảnh xạ qua cái nhìn và cảm nhận của những người mẹ, người bà, những người phụ nữ đã từng đi qua chiến tranh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Judith Butler, 2022, Rắc rối giới (Gender trouble), NXB Phụ nữ.
- Kim Nhạn, 2022, Ocean Vuong: Lịch sử và ký ức qua cái nhìn xuyên thấu, nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/ocean-vuong-lich-su-va-ki-uc-qua-cai-nhin-xuyen-thau_13142.html (truy cập ngày 05/07/2025).
- Nguyễn Hồng Anh, 2025, Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, NXB Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
- Ocean Vuong, Khánh Nguyên (dịch), 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, NXB Hội nhà văn.
- Stephen Owen, David Damrosch, Karen Thornber, 2016, Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong nghiên cứu văn học (Tập bài giảng và tài liệu tham khảo), NXB Khoa học Xã hội.
- Viet Thanh Nguyen, Phạm Viêm Phương (dịch), 2017, Tập truyện ngắn Người tị nạn, NXB Hội nhà văn.
[1] Nguyễn Hồng Anh, 2025, Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, NXB Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tr.64.
[2] Nguyễn Hồng Anh, 2025, Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, Tlđd, tr.64.
[3] Viet Thanh Nguyen, 2017, Tập truyện ngắn Người tị nạn, NXB Hội nhà văn, Phạm Viêm Phương (dịch), tr.22.
[4] Viet Thanh Nguyen, 2017, Tập truyện ngắn Người tị nạn, Tlđd, tr.33
[5] Viet Thanh Nguyen, 2017, Tập truyện ngắn Người tị nạn, Tlđd, tr.38.
[6] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, NXB Hội nhà văn, Khánh Nguyên (dịch), tr.26.
[7] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.26.
[8] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.30.
[9] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.60.
[10] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.82.
[11] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.82.
[12] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.82.
[13] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.84.
[14] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, NXB Hội nhà văn, Khánh Nguyên (dịch), tr.30
[15] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, NXB Hội nhà văn, Khánh Nguyên (dịch), tr.30
[16] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, NXB Hội nhà văn, Khánh Nguyên (dịch), tr.30
[17] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.130.
[18] Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.130.
[19] Viet Thanh Nguyen, 2017, Tập truyện ngắn Người tị nạn, Tlđd, tr.21.
[20]Ocean Vuong, 2021, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, Tlđd, tr.283.
[21]Nguyễn Hồng Anh, 2025, Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, Tlđd, tr.72.
Theo Vân Khánh/Báo Văn Nghệ