- Tư liệu văn học
- Nguyễn Bắc Sơn: Nhà văn tiên phong trong đổi mới
Nguyễn Bắc Sơn: Nhà văn tiên phong trong đổi mới
Nguyễn Bắc Sơn bước vào lĩnh vực tiểu thuyết sau khi đã cho ra mắt hơn mười tác phẩm đủ các thể loại bút ký, tiểu luận, truyện ngắn. Đứng về phương diện nào đó, có thể xem bộ ba tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu - Vỡ vụn - Cuộc vuông tròn là sự tổng kết đời văn của anh.
Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn
Trong gần 40 năm đổi mới, văn học ta đã có sự phát triển vượt bậc. Có thể chia làm hai bộ phận. Bộ phận chiếm số đông là viết về những vấn đề cũ dưới ánh sáng của đổi mới. Bộ phận thứ hai là lấy tư duy đổi mới để viết về chính sự nghiệp đổi mới. Nguyễn Bắc Sơn thuộc bộ phận thứ hai.
Ba bộ tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn tuy viết về những lĩnh vực khác nhau, những số phận khác nhau, nhưng đều có chung một nội dung và tư tưởng nghệ thuật là đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý mở đường, phù hợp với quy luật phát triển. Đây là vấn đề trừu tượng, thuộc tầm vĩ mô, đi thẳng vào những vấn đề chính trị nóng bỏng, nếu không có tay nghề vững và vốn sống được tích lũy đến mức nào đó rất dễ sa vào thuyết lý khô khan. Rất may Nguyễn Bắc Sơn đã tránh được điều đó. Ba bộ tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đều ngồn ngộn chất sống với mảng đời tươi rói, những nhân vật sống động bằng xương bằng thịt, những xung đột khi căng thẳng, khi ngấm ngầm và bao giờ cũng đem đến một kết thúc có tính triết luận cao. Văn của mực thước, lối dẫn truyện rất hoạt, đặc biệt sống động trong khắc họa cá tính nhân vật.
Dễ nhận ra sự giống nhau của ba bộ tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn là đều bắt đầu bằng yếu tố gia đình. Bối cảnh chung là đất nước đã qua 20 năm đổi mới. Thực tiễn của cuộc cách mạng xã hội mang tính lịch sử này đã tác động vào tận ngõ ngách cuộc sống, cho phép nhà văn nhận ra những thay đổi, những phát sinh theo cả hai chiều hướng tốt và xấu, tiến bộ và lạc hậu, kết lại trong số phận từng con người. Đó là gia đình ông Hoè trong Luật đời và cha con và Lửa đắng, là gia đình Trần Xuân Tùng và Diệu Thủy trong Gã tép riu, gia đình Thành với ông bố là người tù Sơn La, gia đình Chính và Thu trong Vỡ vụn và Cuộc vuông tròn. Khởi thủy họ đều là những gia đình yên ấm, hạnh phúc, kết quả của những cuộc tình say đắm, nồng nàn. Rồi những biến đổi xã hội ập đến, mang tính chất tác động khách quan, làm thay đổi cuộc sống của mỗi thành viên. Bà Mận (trong Luật đời và cha con), người vợ đầu của ông Hoè vốn là một phụ nữ nông thôn xuất thân nghèo khó, có nhan sắc, được ông Hoè để mắt và đi đến hôn nhân ngay trong một lần về phép. Rồi cơn bão cải cách ruộng đất ập đến, Mận được bồi dưỡng thành cốt cán và buộc phải tố điêu. Sau sửa sai ông Hoè về phép, biết rõ mọi chuyện liền cắt đứt mối quan hệ vợ chồng với bà Mận, mặc dù họ đã có với nhau một mặt con, và mặc dù bà Mận nhờ có sự bảo vệ khôn khéo của mẹ chồng mà không rơi vào tay ông đội cải cách, vẫn giữ được sự chung thủy với chồng. Bà Mận cay đắng bị cuộc sống xô đẩy, không một lần được thanh minh với chồng, đành buộc phải từ bỏ nhà chồng sống độc thân cho đến khi chết. Hành động quyết đoán vội vã của ông Hoè gieo vào lòng người đọc sự thương xót cái chết oan uổng của bà Mận bao nhiêu thì cũng oán trách sự thiếu khoan dung và nhẫn tâm của ông Hoè bấy nhiêu. Từ một cán bộ trung cấp trong quân đội, ông Hoè chuyển ngành, trở thành cán bộ tuyên huấn của một cơ quan trung ương. Ông thường được mời đi phổ biến nghị quyết và kiêm luôn việc kiểm tra học tập nghị quyết ở nhiều nơi. Với cương vị ấy, ông trở thành một thế lực đáng vị nể. Rồi ông lấy bà Phụng, một nhân viên mậu dịch bán gạo, người biết rõ vai trò của mình thời bao cấp. Nhờ có ông Hoè, bà được kết nạp vào Đảng và thăng tiến vùn vụt. Một gia đình viên chức có cuộc sống dễ chịu hơn nhiều người khác nhưng cái thói keo kiệt của cô mậu dịch viên bán gạo thì vẫn không hề thay đổi. Ấy là việc bà Phụng biếu thầy giáo dạy thêm một cái chân giò nhưng không quên trừ vào thù lao hàng tháng của ông. Rồi đến lúc ông Hoè phải về hưu và bà Phụng cũng phải từ giã cương vị béo bở trong ngành thương nghiệp. Giữa lúc ấy thì Lê Đại con Lê Hoè, một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn xin chuyển ngành và xin ra khỏi Đảng để làm kinh tế tư nhân. Lê Cường, con trai Lê Đại, cháu đích tôn của Lê Hoè được nuông chiều từ bé, sa đà vào ăn chơi hư hỏng, bị đưa ra nước ngoài để tránh tiếng. Nguyễn Bắc Sơn không có ý định xây dựng nhân vật của mình theo một mẫu hình nào có sẵn theo kiểu ông thiện ông ác phân tuyến rõ ràng, chỉ thay đổi về mức độ không có thay đổi về nhân cách. Ngược lại anh đặt nhân vật của mình trong sự soi chiếu nội tâm và tác động của ngoại cảnh. Đó là những nhân cách vận động chứ không phải là những hình nộm minh họa cho một khái niệm có sẵn. Một người theo chủ nghĩa giáo điều và bảo thủ căn cốt như ông Hoè được xem là một mẫu cán bộ tiêu biểu cho một thời nhưng trước tác động của đổi mới, ông đã thay đổi nhanh chóng. Ông không phải đau đớn về đời sống vật chất, nhưng có những bi kịch nội tâm. Đó là sự ân hận, vò xé lương tâm vì cái chết của bà Mận và đứa con đầu lòng của ông với bà Mận là Lê Hồi đã chết trên đường đua điền kinh để lấy thành tích cho đơn vị. Dù ông có cùng người bạn đi mát xa từ A đến Z, đã từng qua đêm với cô ca ve chỉ bằng tuổi con cháu ông, nhưng ông luôn bị lương tâm cắn dứt. Thậm chí có lúc ông còn muốn làm tình với một cô bán gạo ở trọ nhà mình. Nhưng lương tâm đã không ngừng gào thét. Và ông đã biết dừng lại. Ông tìm đến một nguồn vui khác là đọc báo, là quan sát xã hội để làm tư vấn cho Lê Đại đầu tư vào dịch vụ tắc xi và đăng kiểm. Còn Đại, đau khổ vì bị vợ phản bội, anh lao mình vào thị trường, tìm ra các dự án kinh doanh có hiệu quả, luôn luôn nghĩ đến nâng cao đời sống của công nhân viên chức trong công ty. Vui mừng trước sự thành đạt của mình, Đại làm đơn xin trở lại sinh hoạt Đảng. Cái bi kịch của Đại là anh yêu và cưới Kiều Linh, người đã bị con ông là Lê Cường quyến rũ và bỏ rơi. Còn Lê Cường, sau những năm tháng ăn chơi trác táng chán chê đã biết phục thiện, tu tỉnh, xin về nước để làm trợ lý cho bố. Một bi kịch gia đình, một éo le và trớ trêu trong tình trường đã trở thành một thực thể thẩm mỹ với bút pháp tinh tường của một nhà tiểu thuyết. Nhưng gia đình ông Hoè không chỉ có ba nhân vật trên. Tính chất đa diện, phức hợp của tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng còn cho thấy những nhân vật khác với những số phận, những éo le, những vẻ đẹp phong phú hơn nhiều. Đó là Thảo Tần, con gái của ông Hoè và bà Phụng. Thảo Tần là một giáo viên giỏi, một người quản lý giáo dục có tài năng, chỉ vì một lời xúc phạm của đồng nghiệp mà chị xin từ chức hiệu phó để trở lại làm giáo viên dạy toán và chủ nhiệm lớp 12A. Với tài năng và đức độ của mình chị đã đưa lớp học mình làm chủ nhiệm trở thành một lớp học kiểu mẫu, dẫn đầu phong trào dạy tốt và học tốt của toàn trường. Phần thưởng cao quý nhất cô nhận được là sự yêu quý của học trò và kính nể của các bạn đồng nghiệp.
Bìa hai tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn.
Trần Kiên, chồng Thảo Tần con rể ông Hoè lại có số phận hoàn toàn khác. Anh xuất thân từ quản đốc phân xưởng động lực của xí nghiệp. Với anh, thước đo của một đơn vị là hiệu quả chuyên môn. Vì vậy anh đã không cho phép hai công nhân đi họp chi bộ trong giờ hành chính. Vì việc này mà anh bị một số người phản đối và ngăn trở việc anh xin vào Đảng. Trần Kiên không nản chí. Anh lao vào làm việc. Kết quả ba năm liền phân xưởng của anh được xếp đứng đầu xí nghiệp. Phân xưởng liên tiếp được thưởng, đời sống của công nhân được cải thiện rõ rệt. Thực tế đó buộc một số người có thành kiến với anh phải thay đổi cách nhìn. Lần xét kết nạp Đảng cuối cùng anh được 18 phiếu đồng ý, 5 phiếu chống. Từ đó Trần Kiên phát triển rất nhanh, cho đến lúc lên đến chức bí thư quận ủy Lâm Duy thì anh bị sự cố, ấy là việc xử lý đất thừa ra sau khi xây dựng khu thể thao, văn hoá của quận. Phương án xử lý là chia số đất đó cho cán bộ, công nhân viên chưa có nhà ở. Chủ trương được tất cả các cấp tán thành từ cơ sở, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản. Đồng chí bí thư thành ủy cũng đồng ý và còn nhắn khéo, dành cho mình một suất. Việc tưởng đã nắm chắc trong tay thì báo Thời Luận phát hiện. Thanh tra vào cuộc. Trần Kiên thành thực trình bày tất cả và lỡ miệng nói ra việc bí thư thành ủy có đăng kí một suất, vì việc đó Trần Kiên bị kỷ luật đình chỉ công tác. Một thời gian sau, chừng như cảm thấy hình thức xử lý đối với Kiên là quá nặng vì anh chỉ là cấp đề nghị và không đăng ký nhận một lô đất nào trong dự án nói trên, cấp trên phục chức cho Kiên, chẳng những làm bí thư mà còn kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân quận. Nhưng Kiên lại bị ông Lưu phó bí thư tố cáo vì tội chuyên quyền và có quan hệ bất chính. Cuộc đối đầu nảy lửa với ông Lưu giúp cho Kiên nhận thấy tính chất phức tạp trong sinh hoạt nội bộ. Kiểm tra vào cuộc. Trần Kiên trắng án. Một thời gian sau đồng chí bí thư thành ủy bị chuyển đi làm nhiệm vụ khác. Đồng chí Trân về thay. Từ thực tiễn công tác của mình, Kiên tiến hành hàng loạt cải tiến nhằm rút ngắn khoảng cách từ chủ trương đến tổ chức thực hiện. Kết quả, bộ máy chạy đều, hiệu quả công tác cao, đoàn kết nội bộ được củng cố. Từ kết quả đó, anh mạnh dạn xây dựng đề án cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng, được bí thư thành uỷ đồng ý và tổng bí thư ủng hộ. Tinh thần của dự án đó là tinh giản bộ máy, tránh chồng chéo nhiệm vụ, xây dựng bộ máy pháp quyền trong sạch, công khai, minh bạch được lòng dân. Từ những trải nghiệm trong phạm vi mình phụ trách, Trần Kiên đã đề xuất ý kiến cho thí điểm tường thuật tại chỗ các phiên tòa hình sự, bởi như tổng bí thư nói, “nhược điểm lớn của các phiên tòa là các chứng cứ quan trọng hơn cung”. Bí thư thành ủy mới tán thành đề xuất này và báo cáo xin phép tổng bí thư. Tổng bí thư hoàn toàn ủng hộ và hai lần xuống làm việc với các cán bộ chủ chốt của thành phố. Mới mẻ về tư duy, sắc bén về lập luận, sâu sát về thực tiễn, hai buổi làm việc của tổng bí thư là những trang hay nhất, bừng sáng nhất, mang tính đổi mới nhất trong Lửa đắng. Đây là một thành công lớn của Nguyễn Bắc Sơn. Anh đã phải nâng tầm của mình lên rất nhiều để bắt kịp tư tưởng và trí tuệ với những tư duy rất mới mẻ ở tầm vĩ mô và vi mô của tổng bí thư. Trong văn học đổi mới, Nguyễn Bắc Sơn là nhà văn đầu tiên và duy nhất xây dựng nhân vật tổng bí thư sống động, đầy tài năng và tâm huyết, có sức thu phục rất cao. Với tiềm năng trí tuệ và nhân cách trong sáng của mình, Trần Kiên được bầu làm ủy viên dự khuyết trung ương Đảng, đảm nhiệm cương vị phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố, sau đó được bầu làm chủ tịch.
Bên cạnh Trần Kiên, một ngôi sao sáng trong giới báo chí là Triển, tổng biên tập báo Thời Luận. Gia đình này cũng đầy vinh quang và bất hạnh. Sau một loạt bài phóng sự điều tra về dự án thủy cung và việc xử lý lô đất thừa ra từ dự án xây dựng khu thể thao văn hóa của quận Lâm Du, Triển bị kẻ gian đón đường tạt axit vào mặt. Công an đã huy động lực lượng tối đa và sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ, nhưng vẫn chưa tìm ra thủ phạm. Sau một thời gian điều trị tích cực, Triển ra viện và tiếp tục công tác. Trong một buổi giao ban báo chí toàn ngành, Triển được ông Thụ, trưởng ban tuyên giáo trung ương biểu dương và đánh giá rất cao về lòng dũng cảm và bản lĩnh của một người làm báo. Các đồng nghiệp đón chào Triển rất nồng nhiệt và xem ông như một người anh hùng. Với bộ mặt dị dạng, Triển ngại tiếp xúc, không đi ra ngoài, chỉ tập trung vào chữa bài và duyệt bài. Nhưng vợ ông thì xa lánh, lạnh nhạt với ông và cuối cùng bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Đến loạt bài vạch rõ chân tướng của Vũ Sán, từ một nhân viên địa chính cấp phường bằng con đường chạy tiền và gian lận mà có bằng thạc sĩ rồi tiến sĩ, được bầu vào Đảng ủy ngồi vào ghế phó kiến trúc sư trưởng thành phố thì con gái ông Triển bị Vũ Sán thuê bọn lưu manh bắt cóc và xâm hại. Mặc dù vô cùng thương xót con nhưng Kiểm và báo Thời Luận vẫn không hề nao núng trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực. Trong những ngày đau đớn và cô đơn cùng cực, Triển được Minh Phong, phóng viên báo Chính Luận chia sẻ, cảm thông sâu sắc và đem cả đời con gái để bù đắp cho ông. Nguyễn Bắc Sơn đã dành nhiều trang đẹp nhất khám phá những đau đớn nội tâm và nghị lực phi thường của Triển, xây dựng ông thành một hình tượng nghệ thuật điển hình cho giới báo chí thời kỳ đổi mới.
Mô típ gia đình còn được Nguyễn Bắc Sơn xây dựng rất thành công trong tiểu thuyết Gã tép riu. Họ là một cặp vợ chồng xứng đôi phải lứa, đã có những năm tháng chung sống nồng nàn hạnh phúc. Kết quả, họ đã có một đứa con trai đầu lòng, được nuôi dạy tử tế, sau trở thành một chiến sĩ hải quân và hy sinh trong chiến đấu. Người vợ tên là Diệu Thủy vốn là một bí thư đoàn phường, may mắn lọt vào mắt xanh của một cán bộ cao cấp, nhờ vậy chị thăng quan tiến chức rất nhanh, lần lượt trở thành bí thư đoàn quận, vụ trưởng vụ pháp chế rồi lên tới chức thứ trưởng một bộ nọ. Còn anh chồng, nhà báo Trần Xuân Tùng thì lẹt đẹt mãi mới được ngồi vào ghế trưởng phòng quản lý báo chí của sở văn hóa, thể thao và du lịch của một thành phố. Tình cảm vợ chồng cứ mỗi ngày một tẻ nhạt tỉ lệ thuận với sự doãng ra về chức vụ. Cùng ở một nhà nhưng mỗi người đi theo một ngả, chị vợ thì dùng vốn tự có và tiền bạc để chạy cho được tấm bằng thạc sĩ, rồi tiến sĩ, coi đó là những viên gạch kê thêm vững cái ghế của mình. Còn anh chồng thì lao đầu vào đọc và viết, trở thành một người phản biện sắc sảo, uyên thâm, có kiến văn rộng rãi, một chuyên gia dũng cảm và có bản lĩnh. Tùng vì có ý kiến phản biện xác đáng trong vụ thu hồi các parabol, vụ 5 cuốn sách ngoài luồng, vụ quy ước việc cưới nên làm mất lòng một số lãnh đạo cấp trên. Một số người rất muốn kỷ luật anh nhưng không có lý do chính đáng. Tùng vì tình trạng ly thân lâu ngày với vợ nên có dịp làm quen với Dự, một học sinh giỏi văn nhưng không thi đỗ đại học. Cô phải đi rửa bát cho một hiệu ăn, nhân viên bưng bê cho một quán cà phê. Vì không đủ tiền giúp mẹ và em, không có tiền học ôn để thi tiếp vào đại học, cô buộc lòng phải trở thành ca ve gái gọi. Tùng hiểu rõ nguồn cơn và quyết tâm đưa Dự hoàn lương. Và tình yêu đã đến với họ như một lẽ tự nhiên. Câu chuyện bị vỡ lở, bí thư chi bộ chụp ngay lý do này để họp chi bộ thi hành kỷ luật Tùng. Tùng bị ghép tội quan hệ bất chính, bị cách chức trưởng phòng và cảnh cáo ghi lý lịch. Không phải mất thời gian làm quản lý, Tùng càng đọc khỏe, viết khỏe và phản biện ngày càng thuyết phục. Với phương châm ngã ở đâu đứng dậy ở đấy, Tùng được mời tham gia tổ soạn thảo văn kiện đại hội Đảng của thành phố, được một ông bộ trưởng mời về bộ và đưa ra ba phương án: Vụ trưởng vụ pháp chế, phó vụ trưởng vụ xuất bản, phó vụ trưởng báo chí tùy anh tự chọn. Tùng từ chối tất cả, chỉ nhận làm trợ lý cho bộ trưởng. Anh được toại nguyện. Qua những ngày lang thang về cơ sở, Tùng đã phát hiện biết bao vấn đề về quản lý ngành, được bộ trưởng tiếp nhận và điều chỉnh. Thủy, yên vị ở ghế thứ trưởng, tuy không còn yêu Tùng nhưng kiên quyết không ký đơn ly dị để hãm Tùng chịu mãi cảnh cô đơn. Thủy tìm đến Dự, để đe dọa và trước thái độ cứng cỏi của Dự, Thủy đã hành hung Dự phải cấp cứu và sảy thai. Chưa hết, trong phiên toà xét xử lần thứ hai, Thuỷ đã công nhiên xúc phạm Tùng và hành hung Tùng trước tòa. Trước thái độ kiên quyết của Tùng, tòa tuyên án cho anh ly dị. Thủy, mặc dù bị báo chí và dư luận phê phán rất nặng về hành động côn đồ trước toà, nhưng không biết đó làm bài học mà còn quyết tâm ngoi lên cao hơn nữa. Sau khi giải quyết xong một vụ mất đoàn kết ở một công ty, Thủy tự mãn coi mình có thành tích dẫn đến hoang tưởng về tài năng của mình. Thế là chị tìm cách lên gặp đồng chí cán bộ cao cấp, ngỏ ý muốn được trao nhiệm vụ cao hơn. Lập tức một cuộc lấy phiếu tín nhiệm được tổ chức. Sau rất nhiều kịch tính, kết quả kiểm phiếu được công khai tại chỗ. Kết quả số phiếu tín nhiệm của Thuỷ quá thấp. Cấp trên quyết định giữ nguyên bộ máy lãnh đạo của bộ. Thủy cay đắng mất người tình tuyệt vời là ngài bộ trưởng và chắc gì cái ghế thứ trưởng đã được ngồi yên. Với Gã tép riu, Nguyễn Bắc Sơn đưa ra một triết lý: Người ta chỉ có thể đi lên bằng đôi chân của mình và ngồi đúng chỗ của mình khi tài năng và đức độ phù hợp với chức vụ. Đi ngược lại sớm muộn cũng bị đào thải.
Trong Vỡ vụn và Cuộc vuông tròn, mô típ gia đình được tác giả vận dụng với trường hợp Chính và Thu. Chính và Thu đã từng là cặp vợ chồng hạnh phúc, có con gái là Chuyên, học giỏi, được gửi đi học nước ngoài. Thu là chủ nhiệm khoa, đã từng hướng dẫn nhiều học sinh làm luận án thạc sĩ. Đó là một phụ nữ luôn hãnh diện về mình, sống khô khan, máy móc, luôn có mặc cảm về sự thua kém của chồng đối với mình. Chính là giảng viên dạy văn ở cùng trường đại học với Thu, đọc nhiều, hiểu biết rộng, chịu khó ghi chép, tổng kết được mời đi giảng ở nhiều nơi. Vết rạn gia đình bắt nguồn từ những cuộc tranh luận về nhiều lĩnh vực. Thu thường đuối lý nhưng không bao giờ tỏ ra phục thiện vì luôn dựa vào địa vị mình cao hơn chồng. Lòng hám quyền lực che mờ mắt chị, không chịu thừa nhận chồng hơn mình về nhiều phương diện. Từ tự ái đến tự phụ, tự kiêu khiến chị xa lánh chồng rồi dẫn đến ly thân. Chính biết rõ vợ khinh mình nhưng không tìm cách ngoi lên để tương xứng với vợ về mặt chức vụ. Hai mảnh vỡ không còn có cách nào hàn gắn lại được. Đến một ngày, Thu bị tai biến mạch máu não. Chính chăm sóc tận tình giúp vợ qua cơn nguy kịch. Thu chỉ còn viết được để trao đổi với chồng từng câu ngắn.
Ở tỉnh nọ, chức chủ tịch bị khuyết, cuộc chạy đua giữa hai phó chủ tịch là Thành và Lưu Minh Vương. Lưu Minh Vương quyết định đem 500 triệu đến gặp bố Thành, nhờ cụ tác động để Thành xin rút. Bố Thành kiên quyết từ chối. Kết quả bỏ phiếu Thành trúng chức chủ tịch, Lưu Minh Vương đến gặp bố Thành xin lỗi. Bố Thành yêu cầu viết một bản ghi nhớ có chữ ký của ba người, trong đó nói rõ Thành bỏ qua nhưng Vương không được tái phạm. Biết Thu bị bệnh, Thành về thăm cô giáo cũ đồng thời xin ý kiến Chính về việc mở trường đại học ở tỉnh nhà. Chính lên khảo sát tình hình và khuyên Thành không nên mở trường đại học mà mở trường dạy nghề. Vấn đề được đưa ra thảo luận trong cuộc họp thường vụ. Có hai luồng ý kiến khác nhau. Kết quả bỏ phiếu, trước ông quy trình vẫn được gọi là ông bia cổ rụt và ông mỏng toàn diện, đại đa số ý kiến ủng hộ Thành. Qua hoạt động thực tiễn, trường dạy nghề có hiệu quả không ngờ, nhiều học sinh ra trường kiếm được việc làm ổn định, số đơn xin vào trường ngày càng đông. Từ thành công bước đầu, Thành nghĩ phải xây dựng định hướng phát triển lâu dài cho tỉnh. Anh mời Chính lên tham khảo ý kiến và mời toàn thể Thường vụ tham gia cuộc thảo luận có tính chất gia đình. Với kiến văn rộng rãi và cặn kẽ về nhiều lĩnh vực, Chính đã có cách nhìn toàn diện về thế mạnh của tỉnh và đề ra nhiều giải pháp khả thi. Nhưng anh đã vấp phải sự phản đối quyết liệt từ ông quy trình - bia cổ rụt và mỏng toàn diện. Thực chất của cuộc thảo luận là cuộc xung đột giữa thói quen giáo điều, duy ý chí, thể hiện sự ù lì, trì trệ kéo dài từ nhiều năm với những tư duy mới mẻ, táo bạo, dám làm dám chịu trách nhiệm. Chính không khó khăn gì mà không nhận ra những ý kiến phản đối anh, họ chỉ nhân danh bảo vệ Đảng để giữ cái ghế của mình. Với bản lĩnh của một trí thức dày dặn trong cuộc sống, Chính lần lượt đẩy lùi những cái bẫy nhằm quy kết, chụp mũ nguy hiểm về chính trị.
Không lâu sau, Thành được quyết định làm bí thư kiêm chủ tịch tỉnh.
Ba bộ tiểu thuyết, đề tài khác nhau, cốt truyện khác nhau nhưng đều tập trung vào vấn đề cốt lõi, đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, hoàn thiện tổ chức, hoàn thiện bộ máy, hoàn thiện nhân cách, đấu tranh cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi. Đó quả là một cuộc cách mạng, là cuộc tự lột xác để lớn lên. Nói đổi mới tư duy, thực chất là cuộc đấu tranh chống lại cả một hệ thống, những nhận thức những thói quen, những cách nghĩ, đến cách nhìn cách ứng xử cũ kỹ, trì trệ, giáo điều, duy ý chí từng bám sâu vào tiềm thức một số người. Nhìn cho sâu, phân tích cho đến tận cùng thì đằng sau căn bệnh thành tích, bệnh sợ trách nhiệm, bệnh bảo thủ đều có gốc rễ là vấn đề lợi ích. Sợ công khai, minh bạch vì không còn đất cho sự chạy chọt, hối lộ, sợ lấy ý kiến của dân thì động chạm đến lợi ích của nhóm, chụp cho người ta cái mũ nói xấu chế độ thực chất là bịt miệng những ai dám vạch ra khuyết điểm sai lầm. Tất cả những biểu hiện tinh vi đó đã được Nguyễn Bắc Sơn phân tích, mổ xẻ rạch ròi với nhiệt thành ủng hộ cái mới, ủng hộ sự phát triển. Ý nghĩa xã hội của bộ ba tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn là ở chỗ đó, thể hiện tính tiên phong của nhà văn trước thời cuộc.
Theo Hữu Thỉnh/Báo Văn Nghệ