TIN TỨC

Văn học Đổi mới, một cách nhận diện

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-13 01:00:40
mail facebook google pos stwis
225 lượt xem

Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới" đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.

Nhưng nếu ai đó nêu ra một câu hỏi: “Văn học Đổi mới là cái gì?", thì tất ta sẽ không tránh khỏi lúng túng. Trong sáng tác văn chương và nghiên cứu học thuật, một cụm từ khi được hiểu là một thuật ngữ hay một chuyên ngành nó phải đi vào một hệ thống nhất định.

Như đã biết, khi phân loại các tác phẩm văn học, người ta thường dựa vào lịch sử và dựa vào phương pháp sáng tác. Dựa vào lịch sử, cái đập ngay vào mắt ta là những lát cắt trên dòng lịch đại. Bởi thế, ta thường nói: Văn học cổ đại, văn học trung đại, văn học hiện đại.

Ngoài lát cắt này, người ta thường chú ý đến đề tài sáng tác mà người viết hướng tới để hình thành ra các đối lập, ví dụ: tiểu thuyết hiện đại, tiểu thuyết lịch sử, truyện dân gian, truyện ngắn hiện đại... Tại đây, cách tiếp cận khái niệm lại có những bước quanh co. Chẳng hạn, cũng viết về đề tài lịch sử, nhưng ở địa hạt thơ lại không hề có cặp phạm trù: thơ hiện đại/thơ lịch sử. Trong nghiên cứu, tình hình lại còn có những khác biệt hơn nữa. Chẳng hạn, sự đối lập giữa "Văn học hiện đại", và "Văn học sử” không được hiểu là sự đối lập của hai nền văn học phân cắt theo thời gian. Ở đây, “Văn học hiện đại" được hiểu là các tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn từ 1920 (có người tính từ 1925) đến hết thế kỷ XX, còn “Văn học sử lại được hiểu là: văn học theo tiến trình lịch sử. Vì vậy, bộ môn văn học sử ở các trường thường chỉ có nhiệm vụ dạy lịch sử phát triển của văn học.

Cách phân loại tác phẩm văn học phổ biến hơn, được nhiều người biết đến là cách phân chia theo phương pháp sáng tác, và gắn liền với nó là trào lưu sáng tác. Theo cách này ta có các phạm trù: Văn học dân gian/Văn học tác gia; Văn học lãng mạn/Văn học hiện thực phê phán; Văn học hiện thực XHCN. Cũng theo cách phân chia này, ta lại có đối lập: Văn học hiện đại/Văn học hậu hiện đại.... Thông thường, trong tiến trình phát triển, mỗi khi có một phương pháp mới ra đời thì sớm hay muộn trong nền văn học sẽ có một trào lưu văn học mới. Chẳng hạn, vào khoảng thập niên 20-30 của thế kỷ XX, tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách được coi là tác phẩm hiện thực đầu tiên của Văn học hiện đại Việt Nam bởi nó có một phương pháp sáng tác hoàn toàn khác với các tác phẩm của các văn gia thuộc phái Tự lực văn đoàn sau này. Cái công thức phổ biến để định giá cho sự khác biệt đó được thể hiện: Văn học hiện thực là văn học hướng về miêu tả thực tế xã hội, còn văn học lãng mạn thì thoát ly, quay lưng với thực tế, trốn vào cái tôi cá nhân với những mối tình du dương, mộng mị. Bởi thế, khoảng từ 1986 trở về trước, nó được gắn với một mỹ từ thấm đậm chất phê phán “Đó là thứ văn học ru ngủ quần chúng", "thủ tiêu đấu tranh". Phương pháp sáng tác ở đây chủ yếu được hiểu là thái độ của nhà văn trước hiện thực, sâu xa hơn là trước vận mệnh của đất nước. Cũng với cách nhìn ấy, các nhà lí luận Mácxít lại đưa ra một đối lập mới: Văn học hiện thực phê phán và Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Văn học hiện thực phê phán được nhìn nhận như là sự phản ảnh hiện thực mang tính tiêu cực: nhà văn đã thấy được sự đen tối của hiện thực, dám dũng cảm tố cáo hiện thực bất công nhưng không tìm ra lối thoát cho xã hội. Vì thế có nhà nghiên cứu coi nó là “tiếng thở dài chống thực dân phong kiến". Kết thúc “Tắt đèn" Ngô Tất Tố cho mẹ con chị Dậu đi loanh quanh trong đêm vắng tối đen như mực. Kết thúc "Chí Phèo", Nam Cao cho Chí Phèo tự sát trên sân nhà Bá Kiến...

Khác với Văn học hiện thực phê phán, Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa được coi là thứ văn học tích cực nhất của thời đại vì nó biết “miêu tả hiện thực theo qui luật khách quan, tất yếu". Ảnh minh họa. Nguồn pinterest

 

Khác với Văn học hiện thực phê phánVăn học hiện thực xã hội chủ nghĩa được coi là thứ văn học tích cực nhất của thời đại vì nó biết “miêu tả hiện thực theo qui luật khách quan, tất yếu" và kết thúc tác phẩm thì bao giờ nhà văn cũng vạch ra được con đường đi đến trong tương lai. Có thể nói, cách nhìn nhận văn học theo hướng này được du nhập vào Việt Nam chủ yếu từ Văn học hiện đại Xô viết và một số các nước xã hội chủ nghĩa khác. Công thức chung của nó là: Văn học phải ca ngợi cái mới, cái tích cực đấu tranh chống cái tiêu cực. Tuyên ngôn thì như vậy, nhưng trên thực tế, nếu tác phẩm nào đấu tranh mạnh mẽ với tiêu cực thì chưa biết chừng lại bị chụp cái mũ “hiểu biết cuộc sống hời hợt, quan điểm thiếu vững vàng, nhìn nhận hiện thực phiến diện, một chiều..." Thành ra, nhiều nhà văn chỉ miêu tả hiện thực vừa phải: Có đúng, có sai, có tích cực, có tiêu cực, nhưng tích cực bao giờ cũng là số đông. Nói cho chính xác, các hiện thực thực tế thì thường bị né tránh. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đề cao tính chiến đấu, nhưng nhà văn ngại “đấu tranh" vì biết “tránh đâu”. Phương pháp sáng tác thực chất được phân tích theo quan điểm triết học và chính trị học hơn là phân tích thi pháp, ngôn ngữ. Không khí chung của nền văn học là nặng về công thức, giáo điều, có khi còn nặng về giáo huấn hơn là nghệ thuật. Bởi thế, bước sang thời kỳ Đổi mới, nhiều nhà văn, nhà lý luận từng nhận được danh hiệu là tác giả tiêu biểu của Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa lại quay lưng lại, phủ định chính mình. Nguyễn Minh Châu gọi nền văn học ông đã từng tham gia là “nền văn học cần ai điếu", Hoàng Ngọc Hiến gọi đó là thứ “văn học phải đạo" ("chủ nghĩa hiện thực phải đạo"), Trần Đình Sử và nhiều nhà nghiên cứu khác cũng có những phê phán quyết liệt. Từ các hiện tượng lẻ tẻ, nó hiện hữu trở thành quan niệm rộng rãi. Biểu hiện rõ nhất là việc Đổi mới  sách giáo khoa (SGK) văn học chương trình phổ thông trung học. Một loạt các nhà văn, nhà thơ thuộc dòng Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa bị đưa ra khỏi chương trình, thay vào đó là tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ một thời bị phê phán gay gắt. Đó các tác giả của Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Đã có những giai đoạn số tiết giảng về thơ Xuân Diệu bằng một nửa số tiết giảng về Phong trào Thơ mới, và hơn cả số tiết dạy về Tố Hữu cùng Hồ Chí Minh cộng lại. Sự thái quá trong chương trình Đổi mới văn học của SGK phổ thông đã dẫn đến tình trạng ngộ nhận văn chương. Có không ít người nghĩ rằng, cái thứ mà trước đây người ta gọi là văn học cách mạng đến giai đoạn này đã gần như hoàn toàn mất giá trị. Trong con mắt của nhiều thế hệ học sinh, đỉnh cao thơ ca hiện đại Việt Nam là Xuân Diệu và đỉnh cao văn xuôi là Nguyễn Tuân. Nhưng trên thực tế, tình hình lại hoàn toàn không phải như vậy. Thơ Xuân Diệu, nếu chọn lọc kỹ thử hỏi được bao nhiều bài gọi là thực sự hay? Đó là chưa nói, dạy thơ Xuân Diệu nhiều như thế sẽ giúp gì cho lớp trẻ trong nhận thức? Còn Tố Hữu, nếu ta cứ loại đi những bài có tính “ngợi ca" thì vẫn có không ít những bài có tính nghệ thuật cao, đằm thắm tình người có thể mang đến cho người đọc cả giá trị nghệ thuật lẫn nhận thức. Thế nhưng, trong chương trình SGK văn học, ông đã phải lùi ra xa để nhường chỗ cho thi sĩ tình yêu Xuân Diệu (mà ngay cả những bài thơ tình trứ danh nhất của Xuân Diệu thì so với tư duy thời đại cũng đã lạc hậu lắm rồi). Đây có thể coi là một trong những thể hiện rõ nhất về Đổi mới văn học về mặt lý luận mà ở đâu trong các Hội nghị người ta cũng oang oang tuyên bố: Lý luận văn học đang ngày càng Đổi mới, tiến kịp với bước đi của thời đại. Liệu có đúng không? Không đúng. Sau bao năm Đổi mới về kinh tế, xã hội... nền lý luận của chúng ta vẫn là một cái nền lý luận phập phù, a dua, phê bình theo bầy đàn, nếu không muốn nói là cơ hội chủ nghĩa. Nó vừa thoát khỏi giáo điều cực đoan thì lại rơi vào cảm hứng, tùy tiện.

Nhờ tư tưởng Đổi mới, nhiều tác giả của “Phong trào Nhân văn giai phẩm" đã được phục hồi. Tuy nhiên, về phương diện lý luận, chúng ta lại gặp một tình trạng đáng buồn, có nhiều sáng tác của nhóm tác giả này thực tế cũng không đến mức như ta ca ngợi nó, thổi phồng nó. Sự biện giải của nhiều nhà lý luận về một hiện tượng văn học đã làm cho người đọc thấy hẫng hụt. Thực tế, sau khi được “phục hồi", hầu hết các tác phẩm của nhóm này đã được xuất bản trở lại. Cũng hay, nghe thì ghê gớm vậy, nhưng khi tất cả được bày lên trên "giấy trắng mực đen" thì mới thấy giá trị văn học đích thực cũng không được như các nhà phê bình ca ngợi.

Như vậy, thực chất khái niệm Văn học Đổi mới chủ yếu là phương diện sáng tác. Những tác phẩm tiêu biểu nhất cho Văn học Đổi mới được nhắc đến đầu tiên là những bài ký, truyện ngắn đăng trên tuần báo Văn nghệ và một số báo khác vào những năm 1986-1989, như "Cái đêm ấy đêm gì" (Phùng Gia Lộc), “Lời khai của bị can” (Trần Huy Quang), "Người đàn bà quỳ”... Sau đó là một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Đặc điểm nổi bật nhất của những tác phẩm này là người viết dám đối mặt với sự thật, phản ánh sự thật đúng như nó hiện hữu. Cho nên, khi đọc "Cái đêm ấy đêm gì” người đọc thấy sửng sốt như không tin được. Một đêm thu thuế ở Thọ Xuân Thanh Hóa sao lại chẳng khác gì cái đêm “thuế thúc trống dồn" được miêu tả trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố? Còn đọc “Lời khai của bị can" người đọc cứ ngớ ra khi chứng kiến cảnh một con người lao động chân chính, giàu óc sáng tạo lại bị tù đày bởi những lý do rất vớ vẩn. Rõ ràng, chỉ nói riêng về cách tiếp cận của người viết, ta có thể thấy một luồng sinh khí mới đang thổi vào văn học. Đó là sự không né tránh trước hiện thực nghiệt ngã. Chính thái độ này của một số nhà văn đã làm cho văn học bừng lên một bầu không khí mới. Cái mới đến khá nhanh, khiến cho không ít bạn đọc còn bị sốc khi đọc “Kiếm sắc”, “Không có vua” hay “Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp. Khác với cách hành văn đương thời, ít nhiều bị ảnh hưởng bởi lối văn của Nga và Pháp với cách dùng các định ngữ mở rộng để miêu tả, văn Nguyễn Huy Thiệp ngắn gọn, ít miêu tả, dồn nén thông tin theo kiểu hành văn của "Hoàng Lê nhất thống chí” khiến bạn đọc bị cuốn vào các sự kiện. Hiện thực trong văn ông là hiện thực chát chúa, đôi khi đớn đau, quằn quại. Cái người ta dễ nhận thấy nhất về Văn học Đổi mới trên phương diện sáng tác là văn học lúc này đã dám xông vào những “vùng tối”, “vùng cấm", dám phản ánh những mặt trái của xã hội. Với cương vị của mình, tiếng nói của đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có một tác động mạnh mẽ đến tư tưởng và nhận thức của nhà văn. “Hãy tự cứu mình trước khi Trời cứu". Mỗi nhà văn hãy “tự cởi trói" cho mình. Sau giai đoạn 1986-1990, cũng còn có những tìm tòi ở một số nhà văn khác. Trong thơ ca cũng như trong văn xuôi còn xuất hiện cái gọi là "yếu tố hậu hiện đại" nhưng không phải tất cả đều được độc giả đón nhận. Nói một cách khác, về mặt ý thức, mỗi nhà văn đều có những cố gắng tự làm mới mình. Nhưng xét trên tổng thể văn học thì Văn học Đổi mới chưa tạo ra được phương pháp sáng tác riêng. Và vì thế, nó chưa đủ sức tạo ra một trào lưu hay một dòng văn học. Nhận diện chung, Văn học Đổi mới mới chỉ là một phạm trù mang tính lịch sử. Nó là sản phẩm văn học được sáng tạo trong giai đoạn Đổi mới.

Theo Hữu Đạt/Báo Văn nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm