TIN TỨC

Đặc trưng giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-07-26 12:12:07
mail facebook google pos stwis
1089 lượt xem

Bậc thầy truyện ngắn Nga A.P.Chekhov (1860 - 1904) từng cho rằng: “Muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu văn chương (hay giọng điệu nghệ thuật) là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là trong truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

Điều đầu tiên phải khẳng định là trong truyện ngắn không phải thuần túy chỉ một giọng. Truyện ngắn là thể loại vừa có lời kể của nhân vật, lại có lời trần thuật của tác giả. Ngoài ra còn có giọng của “người thứ ba” trong một số truyện của nhiều tác giả. Những nhà văn có tài, trong tác phẩm của họ luôn có sự hòa quyện, tranh giao giữa các giọng điệu càng lớn. Mỗi giọng điệu là một “cái loa” cho một tư tưởng nhất định. Điều này làm cho truyện ngắn là thể loại “đa thanh, phức điệu” (nói theo lý thuyết của nhà văn M.M.Bakhtin, 1895-1975), là thể loại “chưa hoàn kết” về mặt nội dung tư tưởng. Ở đây, truyện ngắn có nét chung với tiểu thuyết nhưng đặc biệt khác với thơ trữ tình.

Ở truyện ngắn, có bao nhiêu nhân vật trong tác phẩm thì ít nhất cũng có bấy nhiêu giọng điệu. Có khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều cách nói khác nhau: lúc ôn hòa thân mật, lúc tha thiết đắm say; khi ân cần, lúc phẫn nộ; khi suồng sã, lúc trang nghiêm… Nhân vật ở trong kịch cũng có đặc điểm này. Nhưng phần lớn nhân vật trong kịch “đã sắm” vai đại diện cho một tư tưởng hoàn toàn thống nhất, trọn vẹn. Trong trào lưu văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945, nhất là các tác giả Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…, tư tưởng nhân vật thể hiện qua giọng điệu luôn được các tác giả bày ra cảnh “cheo leo trên dây xiếc”. Nhân vật có khi là tiếng nói của tác giả, nhưng lại có lúc sống độc lập, đối thoại lại với tác giả. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là Nam Cao, đậm đặc tính chất này. Thơ chủ yếu không có nhân vật. Nếu có thì nhân vật này xoay quanh cái trục của chủ thể trữ tình là tác giả. Khi nhân vật trong thơ phân thành những hệ thống cấp độ, tách ra khỏi chủ thể trữ tình, thì tính chất thơ ở đây chỉ nằm ở mặt hình thức biểu hiện. Không phải là không có lí mà Truyện Kiều của Nguyễn Du, truyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu được gọi là “truyện thơ” hoặc “tiểu thuyết bằng thơ”. Nghĩa là lúc đó tính chất tự sự đã thâm nhập vào bản chất thể loại trữ tình, nó phá vỡ cấu trúc vốn có. Tác nhân ấy là do mỗi nhân vật đều có giọng điệu riêng, tư tưởng, tiếng nói riêng.

Ở đây cũng cần phân biệt giọng điệu nhân vật trong truyện ngắn và trong tiểu thuyết. Nhân vật trong truyện ngắn thường không nhiều, có khi nhà văn giới thiệu bằng một giai đoạn cơ bản nhất trong cuộc đời của một nhân vật. Chính vì vậy mà cơ hội về giọng điệu với sự phức tạp trong nhân vật càng lớn. Khi không có điều kiện nhiều để bộc lộ giọng điệu của mình qua sự đối thoại với nhân vật khác, nhân vật truyện ngắn tự tìm vào sự đối thoại với mình nhiều hơn. Bản chất của mỗi con người vốn không phải lặng im, xuôi chiều. Nó luôn ẩn giấu những tranh giao tư tưởng, suy nghĩ. Khi ngoại cảnh khách quan đưa bản chất chủ thể ấy vào thế “gàng bẫy”, và “tình huống có vấn đề” thì sự giằng xé tương giao càng cao. Nó là cơ sở cho sự “đa giọng điệu” của mỗi nhân vật trong truyện ngắn. Nhà văn càng tạo ra nhiều thế “gàng bẫy” thì chân tài càng được khẳng định. Sự giải quyết của mỗi nhà văn qua những thế “gàng bẫy” cho thấy thế giới quan của mỗi nhà văn. Các nhà văn lãng mạn trong giai đoạn văn học 1930-1945 ở nước ta thường giải quyết theo “tinh thần” riêng của mình, trong lúc đó các tác giả hiện thực lại để cho tính chất khách quan quyết định và đưa đến kết quả giải quyết “vốn nó là vậy”. Vì thế mà hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chủ yếu là một giọng, còn các nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân, Nam Cao… tính chất đa giọng điệu rất rõ.

Điểm thứ ba cần nói ở đây là truyện ngắn chỉ chú ý đến một vài biến cố riêng biệt của cuộc sống con người, cho nên khả năng đi sâu vào nội tâm của nhân vật rất cao. Khi đó hành động, suy nghĩ, những lời thốt ra của nhân vật đều mang mang gánh nặng tư tưởng cả một quá trình trong hình tượng nhân vật đó. Tư tưởng bộc lộ một cách gay gắt trong những mấu chốt nhỏ của truyện. Trong tiểu thuyết, tư tưởng nhân vật phần lớn được xây dựng trên cơ sở khá thoáng hơn. Nó được rút ra từ một quá trình tương đối dài, nhất là qua sự tương quan giữa các nhân vật thông suốt cả câu truyện. Trong truyện ngắn, nhiều khi chỉ xét giọng điệu ở một câu văn, câu đối thoại nhỏ cũng có thể coi đó là tư tưởng của tác phẩm. Lê Tư Chỉ (trong cuốn Phân tích truyện ngắn) có lý khi cho rằng ở truyện ngắn ngôn ngữ nhân vật ít nhưng nó có khả năng tái hiện hết sức linh động về tâm lí, kinh nghiệm sống và tính cách nhân vật, tư tưởng tác phẩm.

Ngoài ra, cách kể, giọng kể của người kể chuyện trong truyện ngắn cũng có những nét riêng so với các thể loại khác. Trong kịch, chúng ta không mảy may tìm thấy giọng điệu của người kể. Các nhân vật đang nói với nhau bằng giọng nói của chính mình, riêng mình, đại diện cho một tư tưởng của tác giả. Trong thơ trữ tình, giọng của người kể lại càng không thể xuất hiện. M.M.Bakhtin cho rằng giữa nhà thơ và ngôn từ của anh ta không có một khoảng cách: “Tính đa nghĩa của biểu tượng thi ca đặt tiền đề cho sự thống nhất và đồng nhất của giọng nói trong mối quan hệ với chính nó, cho sự cô đơn toàn vẹn trong lời nói của nó”. Chính vì thế mà trong thơ trữ tình chủ yếu là một giọng, “khi một giọng khác lạ tham gia vào “trò chơi biểu tượng” ấy, lập tức bình diện thi ca bị phá vỡ và chuyển sang bình diện văn xuôi. Để chứng minh cho điều này, Đặng Anh Đào trích hai câu thơ của Hồ Chí Minh trong bài Trên đường phố so với một bài thơ thuần túy trữ tình là Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù để thấy sự chuyển hóa trong mặt giọng điệu, dẫn đến bình diện thi ca bị phá vỡ.

Cuối cùng, tính chất ngắn gọn của thể loại truyện ngắn đã quy định giọng điệu phù hợp với nó. Sự phù hợp này xác định ở chủ thể sáng tác là nhà văn. Truyện ngắn chỉ dành cho một số nhà văn có “sở trường”. Làm sao để có thể dồn nén hết mức tính chất tiểu thuyết vào trong một truyện ngắn? Nhà văn phải tham gia một cách tích cực vào những “cuộc khởi nghĩa sôi động trong tư tưởng” về bất cứ vấn đề gì dù nhỏ nhặt của cuộc sống. Phải vận dụng mọi thủ pháp vốn có của đặc trưng thể loại ở mức độ cao nhất mới mong truyện ngắn của mình là một “tòa đại lầu” (nói như nhà văn Lỗ Tấn). Tất cả những điều đó đều định hình nên phong cách riêng, một giọng điệu riêng...

Trần Ngọc Tuấn

1997

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm