TIN TỨC

Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 1)

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-24 09:35:09
mail facebook google pos stwis
1724 lượt xem

Bài viết dưới đây của TS. Hà Thanh Vân là một góc nhìn thẳng thắn về chất lượng một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì báo Văn nghệ. Với hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ và văn hóa Nam Bộ, tác giả đặt lại câu hỏi về trách nhiệm nghề nghiệp của người viết văn hiện nay – đồng thời chỉ ra những lỗi căn bản trong cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ vùng miền và bối cảnh truyện.
 

“CÁI GÌ ĐÂY KỲ NÀY”: VỀ MỘT TRUYỆN NGẮN VỪA ĐOẠT GIẢI NHÌ CỦA BÁO VĂN NGHỆ (PHẦN 1)

TS. HÀ THANH VÂN

Sau thành công của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, người – mà - ai – cũng - biết - là - ai - đấy (nói vui kiểu Harry Potter chút), có hẳn một “trào lưu” viết theo kiểu của chị Tư. Tất nhiên là cũng có những tác giả thành công, song theo đánh giá của cá nhân tôi, chưa ai vượt qua được Nguyễn Ngọc Tư, thậm chí còn xa mới theo kịp. Còn những phiên bản lỗi, hỡi ơi, thì lại có cũng khá nhiều.


TS, nhà văn Hà Thanh Vân.

Vừa rồi báo Văn nghệ mới công bố giải thưởng Cuộc thi truyện ngắn 2022 – 2024, tôi bèn ngồi đọc thêm và đọc lại những truyện ngắn có giải. Để minh chứng cho một phiên bản lỗi khi viết về miền Tây Nam Bộ theo kiểu Nguyễn Ngọc Tư, thì trong những tác phẩm đoạt giải có ngay một truyện ngắn hết sức là tiêu biểu. Đó là truyện ngắn “Trăm Ngàn” của tác giả N.T.N. Truyện ngắn này được giải nhì (không có giải nhất) của báo Văn nghệ.

Tôi tạm gọi đây là “cái được gọi là truyện ngắn” vì những lý do sau:
 

NGÔN TỪ KIỂU LẨU THẬP CẨM QUÁ MỨC PHA TRỘN NAM BẮC DÙ BỐI CẢNH LÀ MIỀN TÂY

Ngay từ khi đọc đoạn mở đầu tác phẩm, tôi đã thở dài buồn bã. Tôi buồn vì tôi quá đơn độc giữa cả một biển người đọc truyện này, mà sao không ai phát hiện những lỗi cơ bản nhất:

- Đoạn mở đầu: “Hồi mày còn chưa vào đoàn, tao đã đặt tên cho nó mà nó không chịu, nó nói cứ gọi nó như thế, biết đâu cũng là cái duyên nó tìm lại được mẹ. Bộ mày không thấy hễ tới xóm nào là nó đi rảo từ sáng đến chiều để hỏi thăm, tìm kiếm sao. Tìm từ lúc tóc xanh, giờ tóc nó cũng bạc mà mẹ nó vẫn bặt tăm chim cá.”

Miền Tây thì gọi là “má”, không gọi “mẹ”, nhất là bối cảnh của truyện ngắn này không phải là thời đương đại mà lý giải là giao thoa ngôn ngữ vùng miền. Nhưng đến đoạn sau lại chuyển thành “tía má”. Lẩu thập cẩm còn phải chào thua!

- “Bặt tăm chim cá” là cái gì thế? Theo “Từ điển Thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt”, vốn gốc câu thành ngữ là “bóng chim tăm cá” sau dần thành câu “bặt chim tăm cá”. Nhưng mà thôi, cứ coi như đây là sáng tạo của người viết!

- Cụm từ “nó nói cứ gọi nó như thế” là từ miền Bắc rặt nha. Người miền Tây sẽ là: “Nó biểu cứ kêu nó như vầy”!

- Nên đổi cụm từ “giờ tóc nó cũng bạc” thành “giờ tóc nó đã trắng” thì hợp lý hơn.

Tôi tiếp tục đọc thì đổ ập vào mặt tôi một mớ ngôn từ lộn xộn làm cho tôi tối tăm mặt mũi! Tôi tự nhủ phải hết sức bình tĩnh để đọc tiếp!

- “Gió thổi mạnh bạt mưa vào mấy miếng cao su nghe ào ào. Đoàn hát dựng mấy cái lều cao su tạm trên doi đất đầu sông Đèn Dầu” Miền Tây có lều cao su hồi nào vậy ta? Miền Tây ngày xưa là lấy mấy tấm nylon, hay còn nói cách khác là lấy mấy tấm nhựa mủ để quây làm cái chòi chớ!

- “Nghe nói bữa đó cũng là mùa hạn”. Thưa rằng miền Tây gọi là “mùa khô” nha, “mùa hạn” là từ miền Bắc.

- “Đi theo làm cu lơ cũng được, biết đâu ngày nào đó nó sẽ tìm thấy mẹ.” Từ “cu lơ” chắc tác giả mới sáng tác ra chứ “Từ điển phương ngữ Nam Bộ” không có. Chắc là bịa ra từ “cu li”. Nhưng miền Tây lại không dùng từ “cu li” mà dùng từ “làm mướn”!

Người miền Tây có cái sến sẩm, nhưng là sến dễ thương, dễ mến. Nên tôi nghĩ khi họ đọc những câu văn kiểu này, họ cũng bàng hoàng tự hỏi: Ủa, sao kỳ dzậy?

“Nó vô định về tương lai, rồi sẽ nay đây mai đó, góc biển chân trời phiêu du như những ngọn gió không nhà.”

“Cuộc đời toàn những dấu hỏi mà thằng con trai hơn hai mươi tuổi đầu không thể nào giải đáp.”

“Ngàn dặm nước non mới nhận ra thứ tìm kiếm cả cuộc đời này chính là cuộc sống đơn sơ ngày cũ với niềm hạnh phúc giản đơn, thuần khiết thuở ban sơ chưa từng nhuốm bẩn bởi gạo dầu dấm muối. Vậy mà...” Miền Tây gọi là “dơ”, không gọi là “bẩn” nha.

Lối viết văn sáo rỗng kiểu này e sẽ làm cho những người miền Tây chân chất, bình dị khó mà ưa nổi!

Tôi chán chả muốn kể thêm dẫn chứng, chứ nếu kể thêm, chắc riêng mục bắt lỗi ngôn ngữ này tôi phải viết có độ dài còn hơn cả truyện ngắn “Trăm Ngàn” luôn! Bởi vì hầu như câu nào cũng pha trộn ngôn ngữ Nam Bắc lộn xộn, nửa kim nửa cổ. Lẩu thập cẩm ăn thì ngon đấy nếu do một đầu bếp giỏi nấu nướng! Nhưng lẩu thập cẩm bằng ngôn ngữ kiểu này không những làm cho độc giả hiểu sai lệch về ngôn ngữ miền Tây mà còn đầu độc cả một độc giả khó tính như tôi, làm cho tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Thế quái nào mà truyện này lại có giải nhì của báo Văn nghệ?


Một số minh họa trong truyện đoạt giải báo Văn nghệ

VĂN HÓA MIỀN TÂY? THÔI THÔI THÔI!

Tôi có 12 năm tuổi thơ sống ở dưới miền Tây Nam Bộ, đi nghiên cứu, viết sách về văn học, văn hóa Nam Bộ cũng tạm tạm, chính vì thế, tôi càng không thể hiểu nổi vì sao nhiều người viết văn lấy đề tài miền Tây mà bây giờ viết dễ dãi quá. Ngồi nhà mở máy lạnh, đút chân gầm bàn và… không đọc gì cả, cứ thế mà gõ bàn phím sáng tác! Vì rõ ràng không đọc gì cả, không có kiến thức, mới có thể tạo ra những “cái gọi là tác phẩm” kiểu này. Hoặc nói thẳng ra, đây là sản phẩm chứ không phải tác phẩm. Viết văn rất cần sự tưởng tượng và hư cấu, nhưng kiến thức cũng quan trọng không kém! Không phải ngẫu nhiên mà những chức năng hàng đầu của văn học là giáo dục, nhận thức và thẩm mỹ. Làm ơn, nếu viết, xin hãy có trách nhiệm với chữ nghĩa của mình.

Tôi lại lấy ra vài ví dụ.

- Tôi thương cho cái từ “đa” mà N.T.N xài hết cỡ trong truyện ngắn này. Cũng tương tự như từ “lung” được cô mang ra xài không thương tiếc. Chắc tác giả N.T.N không hề biết là từ “lung” và “đa” chỉ dùng trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, không dùng trong giọng kể của nhà văn! Thêm nữa, những từ này chỉ phổ biến trước năm 1945, nhất là trong các tác phẩm của các nhà văn Nam Bộ sáng tác bằng quốc ngữ đầu thế kỷ XX mà Hồ Biểu Chánh là một tên tuổi tiêu biểu! Sau 1945, miền Tây vắng bóng những từ này.

- “Miền Tây mùa hạn nắng gay gắt, nắng sấy khô cong mớ rơm rạ vàng ruộm trên những cánh đồng đã gặt.” Lại là “mùa hạn”, lại còn không biết là miền Tây thì gặt xong là đốt đồng, lấy đâu ra rơm rạ để lại! Đến tận bây giờ nông dân miền Tây vẫn đốt đồng!

Mà thôi, tôi không kể thêm nữa, kể thêm lỗi sai thì độc giả lại lâm vào cảnh chóng mặt hoa mắt như tôi!

NHỮNG CÂU HỎI DÀNH CHO TÁC GIẢ N.T.N

1. Truyện ngắn “Trăm Ngàn” này có chủ đề gì? Ý nghĩa của truyện ngắn này là gì? Nó chuyển tải tư tưởng nào? Đọc cả truyện chỉ thấy một người đàn ông khổ sở đi tìm mẹ, gia nhập gánh hát rồi bệnh ung thư ch.ết, đưa về quê nhà! Miêu tả cuộc đời khổ như vậy để đi đến vài câu “đạo lý văn hoa” kiểu: “Sống một ngày vui cho trọn còn hơn sống cả đời buồn tẻ”. “Trong những chuyến đi truân chuyên của cuộc đời, ai không từng mơ được trở về nhà xưa, quê cũ vào thời khắc tất cả vẫn còn ở đó như thuở ban đầu.” Vậy đạo lý này đâu có gì mới lạ? Hay chỉ mới lạ với chính tác giả?

2. Motif con đi tìm mẹ, gánh hát miền Tây cũng rất phổ biến ở nhiều tác phẩm. Do vậy, truyện ngắn này nếu đọc ngay từ vài dòng mở đầu, độc giả tinh ý đã có thể đoán ngay diễn biến và phần kết. Vậy tác giả N.T.N có thể cho biết điểm mới của truyện ngắn này không, chứ tôi đọc mỏi mắt tìm vẫn chưa ra.

3. Bối cảnh không gian truyện ngắn này ở miền Tây Nam Bộ. Vậy thời gian là khi nào mà có “Trăm Ngàn” và “giấy căn cước” và gánh hát rong? Giấy căn cước là từ dùng ở miền Nam trước 1975. Tuy nhiên, đơn vị tiền tệ ở miền Nam trước 1975 cao nhất là 5000 đồng (xin mời tra Google đi). Vậy lấy đâu ra “Trăm Ngàn”!

Vì đây là truyện ngắn được viết theo phong cách hiện thực chứ không phải… huyền ảo hay viễn tưởng nên tôi hỏi tiếp tác giả N.T.N: Nếu giả sử chuyện xảy ra sau 1975 thì câu chuyện này có ý nghĩa gì? Tác giả muốn nói điều gì khi miêu tả sự bế tắc, nghèo khổ của nhân vật “Trăm Ngàn”?

Đồng thời, thời điểm có tờ “trăm ngàn” (100.000 VNĐ) là đơn vị tiền tệ Việt Nam là từ ngày 1/9/2000 (lại xin mời tra Google tiếp hay liên hệ thẳng với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).

Vậy các độc giả có tin được nội dung kể trong truyện ngắn này xảy ra sau năm 2000 không, với những chi tiết như: Phạt vạ một trăm ngàn nên đặt tên nhân vật khi đẻ ra là như vậy luôn. Và nhân vật “Trăm Ngàn” này ch.ết vì ung thư ở độ tuổi gần năm mươi! Thế là thế nào? Tôi lại hoa mắt, chóng mặt, đau đầu!

Và sau năm 2000, không còn gánh hát cải lương rong nào ở miền Tây như trong truyện ngắn! Nếu lấy mốc 1975 thì gánh hát rong có thể thấy chủ yếu ở nửa cuối thập niên 70 và thập niên 80 của thế kỷ XX. Sau đó văn hóa miền Tây đã khác rồi! Mời xem lại các sách nghiên cứu về cải lương Nam Bộ, tôi có thể post vài cuốn cho mọi người tải về xem miễn phí!

Tóm lại, tôi vẫn không hiểu cái truyện ngắn này nói gì, hướng đến điều gì? Nhờ tác giả giải thích giùm! Văn học vẫn luôn cần những tác phẩm miêu tả cái nghèo, cái buồn, cái khổ của kiếp nhân sinh con người… nhưng cần miêu tả một cách hợp lý, cảm xúc chứ không phải “trơ quơ trớt quớt” sai tùm lum tùm la, sống sượng và sáo rỗng kiểu này! Đặc biệt, văn học cần sự hư cấu và tưởng tượng, nhưng nếu đã chọn con đường viết văn theo kiểu “hiện thực và nói đạo lý” (không phải là triết lý nhé) thì bất cứ tác giả nào cũng nên chịu khó đọc, tìm tòi kiến thức! Độc giả đại chúng có thể tung hô, khâm phục, nhưng người đọc chuyên nghiệp thì họ sẽ nhận ra ngay đâu là những giá trị thật/ảo! Không phải là cứ nghèo nghèo, khổ khổ, buồn buồn là miền Tây Nam Bộ!

Mời theo dõi và tham gia "Bàn tròn văn học" bằng cách click vào avatar sau đây: 

Rất mong tiếp tục nhận được nhiều bài viết, ý kiến phản biện hoặc góc nhìn học thuật liên quan đến truyện ngắn Trăm Ngàn cũng như các vấn đề văn học khác theo địa chỉ email: khoa7073@gmail.comChúng tôi sẽ ưu tiên chọn đăng trên Văn chương TP. Hồ Chí Minh những bài viết có tinh thần xây dựng, tên tuổi rõ ràng và có giá trị học thuật.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm