TIN TỨC

Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-12 23:44:14
mail facebook google pos stwis
358 lượt xem

Nguyên Tô

Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.

Bìa tập Bút ký "Ký ức bão" của nhà báo Lương Duy Cường

Trước đó ít bữa, tôi đã kịp chạm vào hồn bút kí “Ký ức bão” (NXB Hội Nhà văn - 2025) của luật gia, nhà báo Lương Duy Cường. Anh viết về BÃO rất BÃO, như bởi anh chính là một mảnh văng ra từ những cơn bão kí ức, để những người Quảng Bình là bạn cùng trang lứa, đọc anh, họ thấy được những ngày đã qua.

Khi những day dứt khôn nguôi về bóng ngày cũ, được hóa thân thành con chữ, Lương Duy Cường mới bớt nhức nhối. Nhưng quý hơn cả, là khi soi vào chữ của anh, lại gặp được chính mình. Chỉ điều giản dị ấy thôi đã là động lực, hối thúc người cầm bút như Lương Duy Cường.

Là cựu sinh viên Văn khóa VI - Đại học Tổng hợp Huế, kinh qua sự nghiệp báo chí nên chất văn của Lương Duy Cường riết róng, tựa máu thịt nuôi anh từng ngày. Trong tập bút kí này, tôi đã chạm tới bức tranh phong cảnh tâm hồn dữ dội của Lương Duy Cường. Ngòi bút sắc sảo của anh đã ghi lại vết xước thời gian bằng một ngôn ngữ giản dị nhưng khả năng dung chứa cảm xúc là vô biên.

Tôi dùng từ “ghi lại”, vì sự thật luôn hiển hiện trong hồn chữ - đặc trưng của thể kí, tuy nhiên anh đã có một đời sống khác, trong sự sáng tạo không giới hạn của kẻ luôn thấy mình khát thèm những phương trời viễn mộng.

Không phải ngẫu nhiên mà con sông Gianh - chứng nhân của nỗi tủi buồn phân ly và khát vọng hàn gắn trong lịch sử dân tộc, trở thành nhân vật trong “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường. Đó là quê hương, là mẹ, là hợp lưu quá khứ, hiện tại và tương lai của anh.

Trong tiểu thuyết “Sông Hằng mẹ tôi”, tác giả người Ấn Độ B.P.Gupta (Bhairava Prasad Gupta) đã chọn sông Hằng là biểu tượng về thời gian: dòng chảy - ký ức và không gian - nhà, để nâng tầm ký ức cá nhân thành ký ức tập thể. Ở một nghĩa khác, con sông còn là dòng chảy văn hóa của một cộng đồng, một vùng miền dân cư. Sông Gianh cũng như thế, luôn thao thiết chảy trong tim đứa con Quảng Bình sống xa quê nhà.

Trong tầng diễn dịch khác, sông Gianh ẩn dụ cho dòng chìm trôi, nhưng phù sa văn hóa lại tái hiện đa thanh, đa diện, lớp lang. Sông là cội nguồn đạo lý, để cội nguồn vuột qua, ấy là sự mất và vô ơn, trở về để mặc nước sông tẩm tưới bụi bặm là một thứ nghi lễ thanh tẩy. “Ký ức bão!”giá trị ở điều này.

Ký ức bao giờ cũng thế, thường dậy lên sau lớp bụi thời gian, khi con người đã đủ đầy hoặc ở vào cảnh thanh bần. Khi đủ, người ta khoác cho ký ức cái gọi là “ôn cố tri tân”; lúc deo dắt, ký ức lại là chiếc gối êm, để úp mặt vào mà tự hờn xót hay lấy ngày xa ngái mà thấm lệ mặn.

Những cơn thiên tai đã đẩy người dân Quảng Bình vào những cơn đói - cái đói đã bứt nhiều người trong số đó phải rời khỏi mảnh đất quê nhà để bươn chãi lập nghiệp nơi xa xứ. TP.HCM - quê hương thứ 2 của anh, nơi mỗi đêm tỉnh dậy trong căn phòng ấm, anh vẫn thấy thiếu thốn một cơn gió quất chảy máu da thịt, vệt nắng nỏ khô người. TP.HCM ân tình đã cưu mang gia đình anh, nhưng vẫn không lấp đầy khoảng trống khi xa ngôi làng Lệ Sơn nhỏ bé mà quật cường.

Mỗi “cận Tết là mưa tầm tã, rét cắt da cắt thịt, như muốn trút bỏ lần cuối tất tật những gì còn lại của mùa đông”, là mỗi lần xăm vào anh một vết nhớ quê, nó như một vết thương dai dẳng, chỉ cầm miệng, khi bàn chân anh được trở về mảnh vườn cũ. Mà vườn cũ còn đâu “bao năm lũ lụt cào vét, rồi những đợt di dời… khiến vườn tược, nhà thờ tự cũng không còn”.

Nhưng nấm tròn vùi xương cha nằm lại nơi chôn nhau như một quy luật, một nhưng nhức trong lòng, 10 năm xa, chỉ cúng vọng ông bà tổ tiên và cha bằng những giọt mặn nuốt thầm - một niềm thăm thẳm khôn khuây. “Cha tôi khuất núi sớm. Cơn đột quỵ kéo dài hàng năm trời của cha khiến gia đình đang bề thế bỗng khánh kiệt. Túng bấn, mẹ tôi bán con heo cuối cùng rồi khăn gói đưa đàn con vào Nam mót thuê, lay lắt nuôi con ăn học”.

Anh vẽ chân dung mẹ sau cơn bạo bệnh và sự ra đi của cha. Tạc mẹ anh can trường trong nỗi cô đơn, lần hồi nuôi đàn con khôn lớn. Hơn cả niềm cảm phục và biết ơn. Cơn bão đời đã trao sinh mệnh cho chữ anh. Người đàn bà cặm cụi trong những đêm trường góa phụ, người đàn bà đã cùng con vượt qua cơn bão số phận. Trong đời thường, không thiếu những thân phận đàn bà éo le như thế, nhưng để lưu lại được hình ảnh người mẹ trong trang viết, hẳn không nhiều.

Rồi Tết năm ấy, gia đình anh trở về trong vòng tay người làng. “Đò cập bến, bao nhiêu là người chen nhau ùa xuống, kẻ đỡ tay dìu mẹ tôi lên bờ, người xách giúp vợ tôi mấy cái giỏ. Mấy anh trai tráng giành nhau cõng thằng bé con tôi phăm phăm chạy lên bờ khiến cu cậu cứ tít cả mắt”. Người làng Lệ Sơn đùm bọc, tặng cho gia đình anh cái Tết yêu thương, bù đủ cho 10 đêm trừ tịch dưới bầu trời lộng lẫy Sài thành mà ngóng vọng vòm quê thăm thẳm.

Xa xôi địa lý là một cơ hội để anh hiểu hơn 2 tiếng “người làng”. “Nhang khói nghi ngút trên bàn thờ. Mẹ lau vội mấy giọt nước mắt. Bao năm xa xứ, bây giờ mẹ mới có lại cảm giác của một người con dâu trước bàn thờ tiên tổ”.

Mẹ là quê hương, là tuổi thơ của Lương Duy Cường. Đứa trẻ nào không nôn nao dưới vòm trời mùa hạ? Hạ châm lửa vào những thế hệ hồn nhiên của dải đất hình chữ S thân thương này. “Những cánh hoa mịn màng, chấp chới tựa những cái đuôi dài của loài chim phượng. Tôi cứ ngây người như thế, cứ ngửa mặt lên khoảng trời ấy. Dù gió lớn quăng quật từng cành, từng nhánh, nhưng vẫn thế, vẫn không cánh hoa nào rơi xuống… Như tuổi thơ tôi đã qua lâu rồi, đã mãi trầm tích trong quá vãng”.

Vin cành phượng hồng, cứ thế anh đi trong dòng tự sự về tháng ngày chân trần bỏng rát trên những nẻo đường thơ ngây. Ngôi trường dưới chân đồi Nậm Chu, phượng cháy ngang trời, “bến phà vận hành bằng cách dùng tay kéo cáp” để mỗi lần nhớ cơm mẹ, cả lũ lại rủ nhau về, rồi bươn bả qua sông, áo mũ quấn trong túi nilon đội trên đầu cho kịp giờ học.

 Nỗi nhớ sao mà da diết, vương mắc vào khóm rong tóc tiên, chảy theo làn nước sông Gianh, treo trên tràng hoa phượng thắp đỏ ngực người bạn ra chiến trường, gieo vào con mắt biết nói của người yêu phượng tím…

Cứ thế, nhẩn nha mà kể, nhưng cuối khúc đột ngột một nỗi đau không da thịt mà sao ám ảnh khôn nguôi, trên dòng nước hiền hòa, lòng tham đã biến con người thành cát tặc, những hút xoáy sau khai thác cát đã dìm chết bao sinh mệnh vô tội. “Bỗng thấy con sông hiền hòa thơ mộng của tuổi thơ tôi ngày nào giờ đây như một nỗi ám ảnh không nguôi?

Từ nỗi nhớ tuổi thơ, đặt ra những vấn đề nhân sinh hàng ngày, ấy chính là chất văn ngào trộn trong ngòi bút sắc của nhà báo Lương Duy Cường.

Thế hệ Lương Duy Cường đã có rất nhiều những chàng trai, cô gái ra trận. Họ đi không tiếc tuổi trẻ, có người may mắn trở về, nhiều người đã mãi mãi nằm lại để thắp lên màu quê xanh đến nhức nhối trong nỗi nhớ thương của những người đang sống.

Nhà báo, Nhà văn Lương Duy Cường

Anh nhắc tới chiến tranh, đôi khi như một trò ú tim mà hiểm nguy trộn với thú vị. Thì ra, ở nơi mà thiên nhiên rất khắc nghiệt với con người, thì con người lại hóa giải bằng sự lạc quan, chắt chiu sự sống từ cái chết. “Chiến tranh ác liệt, mẹ suốt ngày đêm bám trụ ở xí nghiệp dược để sản xuất thuốc chuyển ra chiến trường. Lũ trẻ chúng tôi thì đợi con nước lên là lao ra sông Gianh, kiên nhẫn ngồi hóng hàng cứu trợ là những bao bột mì hoặc gạo, nước mắm đóng viên, thảng hoặc sẽ theo dòng nước từ ngoài cửa biển lập lờ trôi trên thượng nguồn. Thích nhất là khi vớt được bao bột mì hoặc bao gạo, vì ngoài cái ăn, chúng tôi còn có bao vải để may quần áo hoặc bao nilon đê làm áo mưa, rồi che chắn mái nhà ngay sau khi B52 tàn phá”.

Sông Gianh, nơi anh đã có chuyến đi để đời với ông Bường dân Kẻ Nôốc, để thấm vào mình phận người được con sông bao dung “họ rất hào hiệp nhưng lênh đênh sông nước, không một miếng đất dung thân”. Cũng con sông ấy, mang nước trong bão đổ, nhấn chìm bao kiếp người. “Bác tôi mất…Cả nhà anh tôi ngồi cầu nguyện mong nước rút để tiễn bác đi. Nhưng nước lên, quan tài bác nổi lên đến nóc nhà… Gia đình anh tôi cả 5 người phải phá mái nhà, dìu nhau sang ngọn cây duối còn chút ngọn vật vờ ngoài ngõ, bứt dây neo người lại với nhau để có chết thì không mất xác”.

Bên bờ sông Gianh, có bao cô gái đã tiễn những chàng trai của mình ra trận, vòm ngực trai vồng lên sau những tràng hoa phượng đỏ như máu chảy. Rồi chính các cô, chỉ vài tháng sau, đón tin chàng trai trở về trên tờ giấy báo tử. Đêm, sông Gianh đã hòa vào mình những giọt lệ nghẹn ngào của mối tình chưa dám ngỏ và trong lòng đất mẹ, có biết bao nhiêu đôi môi con trai chưa kịp biết nụ hôn có vị gì, đã mãi mãi câm lặng. Con sông đau mòn phế phủ, con sông ngọt ngào, con sông chảy trôi bao thế hệ. Sau bão là phù sa. "Ký ức Bão" của Lương Duy Cường cũng chính là một thứ phù sa chữ - phù sa tâm hồn.

Trong “Ký ức bão”, Lương Duy Cường còn là một gã pha màu năm tháng. Anh dụng công vào cặp màu đối nghịch: đỏ - năng lượng dương, tím - năng lượng âm. Nếu màu đỏ loang triền sông Gianh, cháy suốt năm tháng thơ ngây và thanh tân của anh, thì tím là một lời thì thầm rất mộng. Huế là cột mốc định danh đường về của một người con xa quê như anh, nên đến Huế là về. Hơn thế, đây cũng chính là nơi thắp lên thời thanh niên sôi nổi của anh, nơi anh gặp mối tình của mình.

Ngòi bút của anh không từ chối những gai góc, khuất lấp của cuộc đời, nhưng không vì thế mà khô cứng trong tình yêu. “Tím độ em về” là một đoản khúc vài trang trong cuốn sách, nhưng nó là trường khúc bất tận trong tim anh.

Từng qua Huế 2 lần, kịp lướt qua màu tím xứ Thần Kinh, nhưng đọc anh, tôi sâu vào tím. Màu dìu dịu loang tràn con chữ, thắm vào cái bổi hổi của phập phồng ngực trai với những ghì xiết, quấn quýt của một vùng cảm xúc tuổi trẻ. “Tôi và em đã ngồi bên nhau trong đêm chia tay, dưới một gốc xoan già ở chân cầu Trường Tiền. Ở đó, những nụ xoan theo gió lả tả bay xuống, rụng trên mái tóc trinh nữ thoảng một chút hương si mê”.

Màu tím lặn vào anh một nốt lặng trên khuông nhạc nhớ chơi vơi, rồi lớn lên theo năm tháng thành mối lương duyên vợ chồng.

Ngòi bút anh soi vào màu tím hoa xoan mỗi độ xuân nồng, đẩy thành một cơn kí ức về lịch sử Kinh Đô xứ Huế, nơi những vương triều soi bóng. Nhớ chạm dòng sông dùng dằng trong thơ Thu Bồn. Rồi diễm lệ, u huyền trong cơn phóng sinh sắc màu thiên nhiên của hoang sơ đỉnh cao Bạch Mã.

Trong một phút hưng cảm giữa đại ngàn trùng điệp, bút anh đã tỏa màu ảo diệu, đẹp thổn thức “Ngay dưới chân những luồng sáng ấy là vô số đàn bướm thoắt xanh, thoắt tím, thoắt vàng trong vũ khúc hoan mê của bất tận khói sương, bất tận hoang sơ. Và từ những bậc đá nơi dòng nước đang lao ầm ầm như ngựa chứng ấy, bỗng đột ngột khởi cả một dải lụa tím đến nao lòng của tầng tầng hoa mua, hoa bằng lăng và cả loài quyên tím”. Tôi đọc như uống, vì sợ dừng lại thì cái màu tím đẹp đến vô thực kia sẽ tan biến.

Lương Duy Cường là kẻ nặng ân tình, nên vốn liếng giàu có của anh là sự tử tế. Chữ anh Chan chứa những ân tình. Bao năm xa quê, vất vưởng gió bụi triền đời, cuối cùng gia đình anh cũng có được hộ khẩu thành phố, vì thế mà có được ngôi nhà an ấm.

Anh bùi ngùi nhớ lại cơ duyên ấy. “Nhiều dịp được tháp tùng ông Năm Xuân (Đại tướng Mai Chí Thọ) trong các chương trình từ thiện cho người nghèo hay vùng sâu vùng xa”. Câu chuyện về cha anh, đã khiến ông Năm Xuân rất cảm động, ông nói với anh “Ba cháu nhất quyết xin quay trở lại tuyến lửa. Chính bác đã dọa sẽ kỷ luật ba cháu, vì đánh giặc ở tuyến lửa không sợ mà đối đầu với cải tạo công thương thì sợ. Nhưng ổng vẫn dứt khoát xin quay về phục vụ tuyến lửa nên rốt cuộc tổ chức đồng ý”.

Ông Năm Xuân đã đề nghị lãnh đạo Công an Thành phố Hồ Chí Minh nhập hộ khẩu cho anh. “Ông dặn rất kỹ rằng số cán bộ từng vào tiếp quản miền Nam ít nhiều đều có công với thành phố này. Đặc biệt con em tuyến lửa và thì thành phố phải tạo mọi điều kiện để giúp đỡ, vì trong chiến tranh họ đã thiệt thòi nhiều”. Ký ức ấy như sự biết ơn với đấng sinh thành, với người đã giúp đỡ anh. Người không ký ức là người bất hạnh và nghèo khó.

Tôi nghĩ, mỗi ngày sống của Lương Duy Cường sẽ là mỗi đắp đổi cho đầy vơi ký ức. Chắc chắn, anh còn rất nhiều mong ước về cuốn ký ức đời mình, đó là bất ngờ của ngày mai. Nhưng hiện tại, với “Ký ức bão”, anh đã cho tôi thấy được những trải nghiệm của thế hệ anh - một thế hệ từng chứng kiến chiến tranh quét qua những người thân, người bạn và quê hương mình, đau thương, mất mát đã khiến họ chắt chiu sự sống, kiên cường bản lĩnh và chân thành.

Chữ cũng vậy, nếu không thật, sẽ chỉ lấy được những khóc cười giả tạo. Kí là thể loại hấp dẫn độc giả bằng sự thật nhưng lại mê hoặc họ bằng sự mộng mơ. Thử tưởng tượng xem, nếu một ngày kia, sự thật bị đánh cắp và tâm hồn cạn vốn liếng, bạn hay tôi, chúng ta chỉ là những kẻ nghèo khó kiệt cùng mà thôi.

Cũng như, vào đời, mong cầu bình an, ấy là cách bạn biến mình thành một kẻ nhợt nhạt. Vì suy cho cùng, vượt qua những cơn BÃO chính là cách để bạn lớn lên cuộc đời.  

N.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm