TIN TỨC

Bi kịch tiếp nối bi kịch

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-27 17:22:14
mail facebook google pos stwis
1087 lượt xem

LÊ THANH HUỆ

Khúc biệt ly mầu tím là truyện ngắn pha trộn 2 thể loại: hư cấu và phi hư cấu. Truyện mang hình hài sử thi về bi kịch mỹ nữ yêu anh hùng. Bi kịch do chiến tranh chồng thêm bởi bi kịch tạo ra do phản ứng của tự nhiên theo kiểu mù quáng nhất và bi kịch cuối cùng tạo ra do quy luật phôi phai.

KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM – truyện ngắn của Trầm Hương, trang 90, Cần Giờ ngày nắng gọi, Nhà xuất bản Văn học, năm 2023, mã số ISSBN: 978-604-477-211-0.

Truyện được kể ở ngôi thứ nhất: Thắng, chiến sỹ đặc công nước Căn cứ rừng Sác trở về chiến trường xưa gặp bạn làm giám đốc nông trường.

Trong bữa tiệc đón cựu chiến binh ở quán bia ôm, Thắng nghe bài hát buồn da diết. Trầm Hương cũng là nhà thơ nên lời bài ca có chất thơ do tác giả viết ra theo ngữ cảnh của truyện ngắn mang sắc mầu biệt ly:

“… Ngày ấy anh đi không trống không kèn/../ Anh yêu em sao chỉ nhìn không nói/  Chỉ có những giọt nước mắt như dấu lặng (,) khúc biệt ly chảy dài không dứt/ Những đóa hoa rừng tím ngắt/…/ Bóng anh nhòa (vào) ánh trăng sông nước” và điệp khúc “Anh đi” kéo dài vô tận cuộc chi ly.

Bài hát này của cô y tá tên Dung, phục vụ thương binh tại Trạm quân y (tiền phương) Trung đoàn đặc công rừng Sác đóng ở cù lao giữa sông Gò Già và sông Thị Vải. Dung, theo nguyên mẫu mỹ nữ (đủ nhan sắc, cầm kỳ thi họa), cô xinh đẹp nhất trạm, có giọng hát hay, tự sáng tác những bài hát cho riêng mình. Nam với tư chất anh hùng, chỉ huy một đơn vị đặc công rừng Sác, luôn đi đầu, giành lấy hy sinh cho đồng đội sống; được anh em tin yêu, cùng nhau lập nhiều chiến công sánh ngang thần thoại. Trai bắc, gái Nam, mỹ nữ gặp anh hùng thành mối tình trong chiến trường khốc liệt nhất Miền đông Nam bộ. Thắng bị thương, nhập quân y viện được Nam gửi gắm, Dung hồn nhiên chăm chút Thắng theo phong tục chị dâu chăm em chồng.

“Chính ủy trung đoàn gọi tôi (Thắng) về nhận nhiệm vụ mở đường đột nhập kho bom Tuy Hạ. Nhìn thân hình tiều tụy, nước da xanh tái của tôi (Thắng), Chính ủy băn khoăn. Nam kiên quyết nói:/- Tôi xin thay cho đồng chí Thắng nhận nhiệm vụ mới. Tôi hứa hoàn thành nhiệm vụ…/…/ Nam đã đi thay tôi, cũng có nghĩa là sẳn sàng chết thay tôi…”.  Dự cảm không có ngày về, Nam xin phép thăm người yêu, cấp trên đồng ý bằng cách làm lễ xuất quân tại “Tuyến ba” nơi có quân y viện.

Người lính đặc công nước ra trận chỉ có “quần cộc, mũ trùm đầu, dao găm, bình tong nước (và bộc phá)/../ vượt hệ thống rào đủ kiểu, bông ke, hằng hà sa số mìn và trái sáng, chó berger, ngỗng…”. Đột nhập kho bom 2 lần đụng pháo sáng, 6 lần đụng địch phục kích, tổ đặc công nước kích nổ kho bom thành Tuy Hạ lớn nhất lúc bấy giờ. Trên đường về, bị lộ, Nam diệt 2 tên giặc, vẫn bị lưới địch bủa vây cuốn vào. Kiệt sức, anh  bình tỉnh gỡ lưới chui ra. “Mãi ba tháng sau, đồng đội mới tìm thấy chiếc thắt lưng của Nam trôi lều bều trên dòng Vũng Gấm…”. Để lại cho Dung một trời khổ đau và bài hát viết bằng nước mắt. Truyện ngắn pha trộn hư cấu và phi hư cấu, mang hình hài sử thi về bi kịch mỹ nữ yêu anh hùng

Trong truyện có chi tiết thật và đắt giá theo góc nhìn hiện đại: “…lính đặc công chúng tôi sống hòa bình với cá sấu./…/ … mùa hè năm 1968, sau trận thủy chiến/…/ suốt 40 ngày đêm, hàng chục tầu địch bị đắm, hằng trăm người chết chìm, chết cháy trên đoạn sông ông Kèo/…/ cá sấu quen mùi máu và xác chết (của người) đã trở nên hung hãn”. Từ đó, cá sấu săn lùng, ăn thịt tất cả ai ở dưới sông, trở thành kẻ thù nguy hiểm của các chiến sỹ đặc công nước. Nam hy sinh do bi kịch do chiến tranh chồng thêm bởi bi kịch tạo ra do phản ứng của tự nhiên theo kiểu mù quáng nhất.

Dung bị thương ở chân. Hòa bình, cô ở lại chiến trường xưa không theo học lớp sáng tác nhạc như mơ ước và ru con bằng bài hát biệt ly của mình. Dung đi vào miền quên lãng theo thời gian… Tính đến nay, đây là truyện ngắn độc nhất vô nhị với bi kịch chồng bi kịch và bi kịch cuối cùng tạo ra do quy luật phôi phai.

*

Nét độc lạ (độc đáo và mới lạ): Dung không xuất hiện trong thời khắc hiện tại, tiếng hát vọng đến, cùng lời kể vô cảm của người bạn về cô, không hề quan tâm đến biểu cảm của Thắng là ẩn dụ cuộc sống sau chiến tranh trở thành sân khấu cuộc đời nơi họ đang tồn tại như những diễn viên không có tác dụng trong đời thực do điều kiện làm mất đi rất nhiều khả năng cống hiến cho Tổ quốc, họ mờ dần trong thực tại.

Trong chuyến đi về Cần Giờ, ra mắt và tặng sách cho các cán bộ công chức tại nhà văn hóa Cần Giờ (12/11/2024), Trầm Hương cho tôi biết, khi tái bản tác giả sẽ sửa lại hai chi tiết: chiếc thắt lưng theo triều lên, trôi giạt vào bờ quấn lấy chân Dung và sau đó nó được cô trao lại cho đứa con nuôi bị tật nguyền vì chất độc khai hoang. Tác giả dự định viết thêm đoạn: Nghe nói Dung lập mộ gió cho Nam. Không có di ảnh, trên bàn thờ chỉ có thẻ bài. Dung nuôi con và thờ chồng, quyết không đi bước nữa.

*

Trầm Hương chung thủy với đề tài chiến tranh cách mạng; đang hoàn thiện 3 tập sách viết về đề tài mẹ Việt Nam anh hùng ở 3 miền: Bắc, Trung, Nam.

Trầm Hương được chọn dẫn chuyện cho phim tài liệu SỬ THI 1968 về đại tá, anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) chỉ huy lưới tình báo chiến lược huyền thoại hoạt động trong dinh Độc lập… Lựa chọn đó đúng theo lẽ tự nhiên, không có sự may mắn cho tác giả.

Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng về Văn học nghệ thuật, báo chí  đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng giai đoạn 2020-2025 có tên Trầm Hương.

Thạc sỹ Bùi Thị Thủy (Nhà văn Trầm Hương),  sinh năm 1963, tại Bến Tre; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ (2020-2025; Ủy viên Ban chấp hành Hội Nữ trí thức thành phố Hồ Chí Minh được tôn vinh nữ trí thức tiêu biểu thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất giai đoạn 2019-2024.

Trầm Hương là tác giả các tập thơ Hoa lửa (1993), Em kiêu hãnh vì được làm đàn bà (2018), Trường ca Hoa của nước. Trầm Hương đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, tập truyện ngắn, truyện ký và kịch bản phim như Thị trấn không đèn (tiểu thuyết, 1990); Người đàn bà trong thu tím (Tập truyện); Hoa kèo nèo tím biếc (Tập truyện, 2005); Người đẹp Tây đô (Tiểu thuyết, 1996); Mẹ (Tập truyện ký, 2002); Nắng quái (Tiểu thuyết, 1998); Đêm trắng của Đức Giáo Tông (Tiểu thuyết, 2000); Cổ tích cho con (truyện dài, 2002); Đêm Sài Gòn không ngủ (tiểu thuyết, 2008); Trong cơn lốc xoáy (Tiểu thuyết, 2015); Người cha hiện đại (tiểu thuyết, 2011); Chuyện năm 1968 (Tập truyện ký, 2017); Đường 1C huyền thoại - Những bờ vai con gái (Truyện ký, 2021)…

Đa tài, Trầm Hương vẽ tranh tĩnh vật, có giọng ca Cải lương mùi mẫn…

Trầm Hương được trao các giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm của Thành phố lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba; Giải thưởng sáng tạo của thành phố Hồ Chí Minh năm 2021; …  Và nhiều giải thưởng kịch bản phim truyện, phim tài liệu như Lời thề, Biệt ly trắng, Đêm trắng Vĩnh Lộc, Những cánh hoa ngược dòng…

Phê bình văn học nên phù hợp với tác phẩm được phê bình; do đó không có khuôn mẫu chung. Suy cho cùng, phục vụ độc giả văn chương mới là mục đích cuối cùng của tác phẩm. Độc giả là nơi tác phẩm tạo ra cảm nhận, liên tưởng, suy diễn khi đọc tác phẩm; gọi là đồng sáng tạo, gần giống với công việc biên tập văn chương. Đó mới là môi trường tác phẩm sống và tồn tại theo thời gian. Vì lý do đó, bài viết sử dụng hình thức cảm tưởng (cảm nhận và liên tưởng) về truyện ngắn.

Tuy nhiên, do khối lượng tác phẩm nhiều, nên truyện ngắn KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM không đại diện cho sáng tác của Trầm Hương.

Sài Gòn mùa hè 2025
LTH

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm