TIN TỨC

“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-31 14:40:57
mail facebook google pos stwis
1449 lượt xem

TS. HOÀNG THU THỦY

Tôi may mắn quen biết (1986) và thỉnh thoảng cùng ngồi Hội đồng Khoa học với PGS.TS. Hồ Thế Hà (từ năm 2002 đến nay); và cũng thật may mắn được anh tặng cho hầu hết những cuốn sách anh đã xuất bản. Tôi chưa dám viết về bất kì cuốn sách nào của anh, bởi trong anh, có nhiều nhà trong một nhà - Nhà khoa học, Nhà lý luận phê bình, Nhà văn, Nhà báo…

Ở vị trí nào, anh cũng có những đóng góp và nhận nhiều giải thưởng các cấp. Lần này, nhận tập thơ Ngày xanh anh tặng, tôi như gặp lại một thời hoa mộng của thanh xuân. Có thể gọi tên nhà thơ bằng định danh: Hồ Thế Hà - nhà thơ của thời hoa mộng - thơ của tháng ngày đẹp nhất trong cuộc đời. Anh đã có một hành trình thơ dày dặn với 9 tập thơ xuất bản từ năm 1990 đến nay: Khoảnh khắc (1990), Nghìn trùng (1991), Xác thu (1996), Thuyền trăng (2013), Tơ sương (2015), Xem mơ (2016), Nến tình (2021), Thẳm xa (2024), Ngày xanh (2025).

Vừa bước vào năm thứ hai ở trường Đại học, anh lên đường nhập ngũ theo lệnh Tổng động viên (1978), làm nhiệm vụ chiến đấu. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giúp bạn, anh về lại trường cũ tiếp tục nghiệp bút nghiên (1981-1985). Đấy là quãng thời gian có nhiều dấu ấn của tuổi trẻ. Từ thanh xuân cho đến tuổi hoa niên, anh đã gắn bó với Huế bởi duyên tình và sự nghiệp. Anh mang theo tấm căn cước quê hương Bình Định - nơi lưu giữ biết bao trầm tích văn hóa, hòa quyện cùng văn hóa Huế để làm nên một cốt cách và giọng điệu thơ riêng mang tên Hồ Thế Hà: “Không phải thu vàng/ Cũng không mùa phượng cháy/ Ký ức nào thăm thẳm/ Gọi tôi về/ Huế mùa đông tóc xõa/ Phố cho dài mưa bay/ Dãy xà cừ trầm tư/ Hoàng hậu mùa không hoa/ Màu tím nhớ tan vào mây lữ thứ/ Tiếng đàn tranh đồng vọng phía sông mờ/ Cũng không phải vầng trăng/ Không cỏ vàng kỷ niệm/ Không bóng si rủ dáng rèm mơ/ Mùa đông buốt/ Nhói một vùng tâm tưởng/ Dư âm giờ xao xác phía hư vô/ Huế gọi tôi về/ Sông Hương chảy trong mưa chiều thao thiết/ Con thuyền reo vỗ nhịp bến hoang sơ” (Huế gọi tôi về - 1984). Điệp từ “không” lặp đi lặp lại trong cả bài thơ nhoi nhói trong ta một nỗi buồn về cái cảm giác “cô đơn”, cô đơn không phải vì đơn chiếc mà vì trong thời điểm trưởng thành con người ta có nhiều phân vân, cho dù “không” - không thu vàng, không cỏ vàng kỉ niệm, nhưng từ trong thẳm sâu một sợi dây vô hình níu kéo, mời gọi, buộc chân người lữ thứ, đó cũng là nghệ thuật dùng “không” nói “” - có Huế mùa đông, Huế mùa hoa, Huế dòng Hương - “Huế gọi tôi về”. Không biết bước chân của thi nhân đã bao lần in dấu trên mỗi vỉa hè, mỗi hàng cây, mỗi con đường trên thành phố Huế mà mỗi thi ảnh trong bài thơ như gợi, như tả, như kể, như tự tình, như là hiển hiện… chỉ thế thôi mà xôn xao bao nhớ mong, bao kỉ niệm và bài thơ như là vẫy gọi.  

“Những bài thơ trong Ngày xanh chủ yếu là thơ tình yêu thơ mộng và lãng mạn thời sinh viên, vừa cụ thể, vừa xa vời, vừa mê đắm, vừa dại ngộ” (Lối vào Ngày xanh, tr.7 - Hồ Thế Hà). Tác giả đã khai mở trong lời mở đầu tập thơ như thế, giúp độc giả có định hướng trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Mỗi bài thơ đều ghi lại thời gian sáng tác, đây có thể xem là “nhật ký thơ” trong hành trình sáng tạo của thi nhân:

Em ơi rượu chỉ một bầu

Thơ thì một túi, nỗi sầu một bao

Tình yêu một biển sóng trào

Nụ hôn đợi một nụ trao nồng nàn

Đời buồn một kiếp lang thang

Em đi một chuyến đò ngang muộn về

Đợi em tàn một cơn mê

Tỉnh ra mới biết mình mê một mình

Bao giờ trọn một cuộc tình

Cho tôi thôi hết lênh đênh một đời

Gọi em một tiếng giữa trời

Vầng trăng thì vẫn lẻ loi một vầng

Bao giờ tôi thôi một thân

Để thôi nuối tiếc một lần yêu em?

 (Một - 1984)

Bài thơ lục bát mở đầu tập thơ đã bộc lộ nỗi cô đơn của cái tôi thi nhân - cái tôi cô đơn của tuổi trẻ nhiều mộng mơ, khao khát; nỗi cô đơn này không riêng gì tác giả mà biết bao tuổi trẻ cùng thời với anh, tôi cũng thấy có mình trong đó. Sự cô đơn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình sáng tạo. Nếu chưa từng cô đơn, chưa từng tiếc nuối, chưa từng phân vân, chưa từng khao khát thì chàng thi sĩ Hồ Thế Hà ở độ tuổi thanh xuân không thể có tâm lý sáng tạo kiểu như “Ta là một, là Riêng, là Thứ nhất” (Xuân Diệu) ở trong bài thơ Một. Cái tôi trữ tình phân thân và thức tỉnh, nói như PGS.TS Đỗ Lai Thúy, đó là “Hành trình tìm lại bản thể, cái bản lai diện mục ấy, của Hồ Thế Hà là một “con đường đau khổ” (Hồ - Thế - Hà - Thơ, Đỗ Lai Thúy - https://vannghebinhdinh.vn/ho-the-ha-tho/).

Có phải nhờ “con đường đau khổ” mới có thơ, hay thơ là cách giãi bày về “nỗi khổ”? Mà văn chương có khổ mới hay, nhà văn có “đau” ở đâu đó thì viết mới hay. Với nhà thơ Hồ Thế Hà thì anh đã đi qua một hành trình nghệ thuật và sáng tạo để tìm thấy Một, và con đường anh đi chắc chắn là có nhiều trăn trở, suy tư, nhuốm màu đau khổ:

Nỗi đợi chờ mang chính mình đi hoang

Là tôi tìm em đẫm sương khuya Hà Nội

Có cách chi để thôi khát một mình

Điều bí mật đã thành giông bã

 (Phân thân, 1985)

Với bài thơ Mắc nợ, nhà thơ cảm nhận sự xa cách không phải bởi không gian mà tự trong cảm nhận đã nhận ra sự ly biệt. Thi ảnh trong bài thơ rất đẹp, gợi nhớ những địa danh, những nét riêng của Thủ đô yêu dấu. Hà Nội phố trong anh thấm đẫm một tình yêu. Mỗi khổ thơ là một tứ thơ đẹp, cả bài thơ là một chỉnh thể nghệ thuật hài hòa, chặt chẽ, nên dẫu có “bơ vơ, lỡ làng” thì đó cũng là một nỗi buồn đã thăng hoa nghệ thuật:

Rồi sẽ một ngày Hà Nội ơi, day dứt

Em đã xa, tôi đã dại khờ

Tôi lỡ đánh rơi vầng trăng vào đáy nước

Để bây giờ mắc nợ với bơ vơ

Những cung bậc cảm xúc trong thơ tình yêu của nhà thơ Hồ Thế Hà ở tập thơ Ngày xanh thể hiện một hành trình tìm lại chính mình trong cái tôi trữ tình chân thực và anh luôn nhận nỗi cô đơn, sự tiếc nuối về phía mình, giọng thơ anh nhẹ nhàng, dịu dàng như chính trái tim luôn khát khao, rung cảm và cũng như chính cuộc đời của anh, hiền hòa, thân thương:

Có một tình yêu đầu đời tôi đem trao

Người con gái hững hờ không nhận

Nỗi buồn từ đó lên ngôi

 

Có một tình yêu tôi dâng cùng nỗi buồn

Người con gái ấy thuộc về người khác

Lá thu rơi vàng mặt đất

 

Có một tình yêu mang nỗi buồn lá thu

Tôi tặng em ngày cưới

Xác pháo hồn tôi tan tác

                     (Có một tình yêu, 1984)

Thi ảnh “lá thu, xác pháo” như lời từ biệt mối tình đầu, mối tình đơn phương, mối tình vô vọng… em “hững hờ”, tôi đa tình; cứ thế mà đau, mà buồn, nỗi buồn của tình yêu đầu đời dẫu có vô vọng thì vẫn đẹp bởi giọng thơ nhẹ nhàng, tứ thơ dìu dặt, cảm nhận như sợi tơ lòng đang ngân lên những nốt nhạc nhớ thương và tiếc nuối: “Thế rồi tôi cứ lặng im/ Và rồi em cũng lặng im. Thế rồi/ Tôi về ép trái tim tôi/ Nhỏ thành giọt nhớ trọn đời yêu em” (Thế rồi).

Những rung cảm đầu đời của trái tim đa cảm khi đã thành thơ thì mối tình không chỉ đẹp bởi trái tim của người đang yêu mà còn đẹp bởi sự đồng cảm của những độc giả cùng chung tâm trạng hay cùng chung nỗi buồn giống anh. Văn học không chỉ bộc lộ ở bề rộng của những kiến thức về đời sống mà chủ yếu và quan trọng hơn là ở chiều sâu của những khám phá thẩm mĩ về con người: “Đôi mắt em gieo cái nhìn trìu mến/ Chạm vào tim tôi nhói những cơn đau/ Cũng đôi mắt em bao dung, nồng ấm/ Mơ ước nào tôi đợi đã từ lâu”. Bởi vì: Có một tình yêu mỏng manh như cỏ/ Có nỗi niềm chẳng thể nói thành câu/ Rồi sẽ chết những cái nhìn đa cảm/ Rồi sẽ tan những nụ hôn đầu”. Để cuối cùng, cả hai đều nhận về mình những trầm tư, nhớ nhung và mơ mộng:

Rồi sẽ có một người con gái nhớ

Một chàng trai mơ mộng, trầm tư

Chiều sẽ xuống, nắng vàng rồi sẽ tắt

Vô tư ơi! Cho tôi được giã từ

 (Rồi sẽ - 1983)  

Ngày xanh không chỉ trữ tình và lãng mạn với đề tài muôn thuở - tình yêu - tình yêu đẹp mà buồn bởi cái tôi trữ tình càng yêu càng nhận ra nỗi cô đơn trong hành trình tìm lại chính mình; mà tập thơ còn bộc lộ cái tôi trữ tình trong “những ngày tháng thanh xuân gian khổ và đẹp nhất trong cuộc đời sinh viên của tôi” (sđd, tr.5)  

Bao năm rồi cứ thế bình yên

Dãy nhà con trai, dãy nhà con gái

Chỉ cách nhau một sắc bàng khó nói

Nên bên này, bên ấy chẳng tìm nhau

(Màu xanh ô cửa)

Kí ức một thời được khơi gợi trong cái nhìn thao thiết của nhà thơ về ô cửa màu xanh - nơi ấy có cái vô tư, hồn nhiên, cái dịu dàng, thơ ngây, cái rụt rè hồi hộp, cái đắm say của tuổi trẻ. Nơi ấy là cả một bầu trời “sinh viên” của bất cứ ai từng bước chân vào đại học - vào ở ký túc xá của nhà trường. Tất cả đã trở thành nỗi nhớ khi chia xa: “Sẽ rất nhớ dáng người con gái ấy/ Dịu dàng ơi, đôi mắt cứ lặng buồn/ Đêm chia tay bao điều không thể nói/ Mai em về kỉ niệm mù sương”. Những vần thơ thời sinh viên ấy là hành trang, là kí ức của biết bao thế hệ; nhớ thương và kỉ niệm sẽ theo ta trong suốt cuộc đời. “Em” là nguyên cớ, là điểm tựa, là khát vọng tình yêu trong mỗi con người:

Em đã sống hồn nhiên cùng với Huế

Trái tim ơi! Em chẳng hiểu em đâu

Vô tư ơi! Sao vô tư đến vậy

Thời sinh viên thành kỉ niệm rồi

 (Sẽ rất nhớ - 1984)

Ngày ra trường biết bao kỉ niệm, biết bao quyến luyến, biết bao hoài niệm, biết bao nuối tiếc: “Có cách chi để mà đừng xa cách/ Bạn bè ơi! Hoa phượng đỏ dường kia/ Tôi đã nghe một cô áo trắng/ Hát bài ca tạm biệt để chia lìa”. Để rồi còn lại một rung cảm lặng thầm, hồi hộp thời hoa đỏ mộng mơ:

Rung cảm lắm nhưng nào đâu dám nói

Để phập phồng, hồi hộp trái tim ai

 (Bài thơ chia tay)

Những vần thơ vấn vít, đan cài, tất cả như trôi chảy trong tiềm thức, kí ức và nỗi nhớ. Đó là toàn bộ nỗi niềm yêu thương, rung cảm làm nên thi pháp Ngày xanh của Hồ Thế Hà.

***

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người thơ Hồ Thế Hà đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt, tình yêu nồng cháy trong thơ từ những ngày ngồi trên giảng đường Đại học và rồi bốn mươi năm sau, Ngày xanh đã lưu giữ thời kì thanh xuân rực rỡ và tràn đầy sức sống của trái tim nhiệt huyết và hoài bão với những kỉ niệm không thể phai mờ trong tâm hồn dạt dào thi cảm Hồ Thế Hà:

Hãy nhẹ nhàng, đừng làm trăng lay động

Để dòng Hương thức suốt đêm nay

Từng đi khắp đất trời, từng chong mắt nhớ

Tôi gặp lại hồn mình qua màu Huế mê say

 (Màu Huế)

Huế, ngày mưa tháng 6/2025

H . T . T   

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm