TIN TỨC

“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-31 14:40:57
mail facebook google pos stwis
1301 lượt xem

TS. HOÀNG THU THỦY

Tôi may mắn quen biết (1986) và thỉnh thoảng cùng ngồi Hội đồng Khoa học với PGS.TS. Hồ Thế Hà (từ năm 2002 đến nay); và cũng thật may mắn được anh tặng cho hầu hết những cuốn sách anh đã xuất bản. Tôi chưa dám viết về bất kì cuốn sách nào của anh, bởi trong anh, có nhiều nhà trong một nhà - Nhà khoa học, Nhà lý luận phê bình, Nhà văn, Nhà báo…

Ở vị trí nào, anh cũng có những đóng góp và nhận nhiều giải thưởng các cấp. Lần này, nhận tập thơ Ngày xanh anh tặng, tôi như gặp lại một thời hoa mộng của thanh xuân. Có thể gọi tên nhà thơ bằng định danh: Hồ Thế Hà - nhà thơ của thời hoa mộng - thơ của tháng ngày đẹp nhất trong cuộc đời. Anh đã có một hành trình thơ dày dặn với 9 tập thơ xuất bản từ năm 1990 đến nay: Khoảnh khắc (1990), Nghìn trùng (1991), Xác thu (1996), Thuyền trăng (2013), Tơ sương (2015), Xem mơ (2016), Nến tình (2021), Thẳm xa (2024), Ngày xanh (2025).

Vừa bước vào năm thứ hai ở trường Đại học, anh lên đường nhập ngũ theo lệnh Tổng động viên (1978), làm nhiệm vụ chiến đấu. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giúp bạn, anh về lại trường cũ tiếp tục nghiệp bút nghiên (1981-1985). Đấy là quãng thời gian có nhiều dấu ấn của tuổi trẻ. Từ thanh xuân cho đến tuổi hoa niên, anh đã gắn bó với Huế bởi duyên tình và sự nghiệp. Anh mang theo tấm căn cước quê hương Bình Định - nơi lưu giữ biết bao trầm tích văn hóa, hòa quyện cùng văn hóa Huế để làm nên một cốt cách và giọng điệu thơ riêng mang tên Hồ Thế Hà: “Không phải thu vàng/ Cũng không mùa phượng cháy/ Ký ức nào thăm thẳm/ Gọi tôi về/ Huế mùa đông tóc xõa/ Phố cho dài mưa bay/ Dãy xà cừ trầm tư/ Hoàng hậu mùa không hoa/ Màu tím nhớ tan vào mây lữ thứ/ Tiếng đàn tranh đồng vọng phía sông mờ/ Cũng không phải vầng trăng/ Không cỏ vàng kỷ niệm/ Không bóng si rủ dáng rèm mơ/ Mùa đông buốt/ Nhói một vùng tâm tưởng/ Dư âm giờ xao xác phía hư vô/ Huế gọi tôi về/ Sông Hương chảy trong mưa chiều thao thiết/ Con thuyền reo vỗ nhịp bến hoang sơ” (Huế gọi tôi về - 1984). Điệp từ “không” lặp đi lặp lại trong cả bài thơ nhoi nhói trong ta một nỗi buồn về cái cảm giác “cô đơn”, cô đơn không phải vì đơn chiếc mà vì trong thời điểm trưởng thành con người ta có nhiều phân vân, cho dù “không” - không thu vàng, không cỏ vàng kỉ niệm, nhưng từ trong thẳm sâu một sợi dây vô hình níu kéo, mời gọi, buộc chân người lữ thứ, đó cũng là nghệ thuật dùng “không” nói “” - có Huế mùa đông, Huế mùa hoa, Huế dòng Hương - “Huế gọi tôi về”. Không biết bước chân của thi nhân đã bao lần in dấu trên mỗi vỉa hè, mỗi hàng cây, mỗi con đường trên thành phố Huế mà mỗi thi ảnh trong bài thơ như gợi, như tả, như kể, như tự tình, như là hiển hiện… chỉ thế thôi mà xôn xao bao nhớ mong, bao kỉ niệm và bài thơ như là vẫy gọi.  

“Những bài thơ trong Ngày xanh chủ yếu là thơ tình yêu thơ mộng và lãng mạn thời sinh viên, vừa cụ thể, vừa xa vời, vừa mê đắm, vừa dại ngộ” (Lối vào Ngày xanh, tr.7 - Hồ Thế Hà). Tác giả đã khai mở trong lời mở đầu tập thơ như thế, giúp độc giả có định hướng trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Mỗi bài thơ đều ghi lại thời gian sáng tác, đây có thể xem là “nhật ký thơ” trong hành trình sáng tạo của thi nhân:

Em ơi rượu chỉ một bầu

Thơ thì một túi, nỗi sầu một bao

Tình yêu một biển sóng trào

Nụ hôn đợi một nụ trao nồng nàn

Đời buồn một kiếp lang thang

Em đi một chuyến đò ngang muộn về

Đợi em tàn một cơn mê

Tỉnh ra mới biết mình mê một mình

Bao giờ trọn một cuộc tình

Cho tôi thôi hết lênh đênh một đời

Gọi em một tiếng giữa trời

Vầng trăng thì vẫn lẻ loi một vầng

Bao giờ tôi thôi một thân

Để thôi nuối tiếc một lần yêu em?

 (Một - 1984)

Bài thơ lục bát mở đầu tập thơ đã bộc lộ nỗi cô đơn của cái tôi thi nhân - cái tôi cô đơn của tuổi trẻ nhiều mộng mơ, khao khát; nỗi cô đơn này không riêng gì tác giả mà biết bao tuổi trẻ cùng thời với anh, tôi cũng thấy có mình trong đó. Sự cô đơn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình sáng tạo. Nếu chưa từng cô đơn, chưa từng tiếc nuối, chưa từng phân vân, chưa từng khao khát thì chàng thi sĩ Hồ Thế Hà ở độ tuổi thanh xuân không thể có tâm lý sáng tạo kiểu như “Ta là một, là Riêng, là Thứ nhất” (Xuân Diệu) ở trong bài thơ Một. Cái tôi trữ tình phân thân và thức tỉnh, nói như PGS.TS Đỗ Lai Thúy, đó là “Hành trình tìm lại bản thể, cái bản lai diện mục ấy, của Hồ Thế Hà là một “con đường đau khổ” (Hồ - Thế - Hà - Thơ, Đỗ Lai Thúy - https://vannghebinhdinh.vn/ho-the-ha-tho/).

Có phải nhờ “con đường đau khổ” mới có thơ, hay thơ là cách giãi bày về “nỗi khổ”? Mà văn chương có khổ mới hay, nhà văn có “đau” ở đâu đó thì viết mới hay. Với nhà thơ Hồ Thế Hà thì anh đã đi qua một hành trình nghệ thuật và sáng tạo để tìm thấy Một, và con đường anh đi chắc chắn là có nhiều trăn trở, suy tư, nhuốm màu đau khổ:

Nỗi đợi chờ mang chính mình đi hoang

Là tôi tìm em đẫm sương khuya Hà Nội

Có cách chi để thôi khát một mình

Điều bí mật đã thành giông bã

 (Phân thân, 1985)

Với bài thơ Mắc nợ, nhà thơ cảm nhận sự xa cách không phải bởi không gian mà tự trong cảm nhận đã nhận ra sự ly biệt. Thi ảnh trong bài thơ rất đẹp, gợi nhớ những địa danh, những nét riêng của Thủ đô yêu dấu. Hà Nội phố trong anh thấm đẫm một tình yêu. Mỗi khổ thơ là một tứ thơ đẹp, cả bài thơ là một chỉnh thể nghệ thuật hài hòa, chặt chẽ, nên dẫu có “bơ vơ, lỡ làng” thì đó cũng là một nỗi buồn đã thăng hoa nghệ thuật:

Rồi sẽ một ngày Hà Nội ơi, day dứt

Em đã xa, tôi đã dại khờ

Tôi lỡ đánh rơi vầng trăng vào đáy nước

Để bây giờ mắc nợ với bơ vơ

Những cung bậc cảm xúc trong thơ tình yêu của nhà thơ Hồ Thế Hà ở tập thơ Ngày xanh thể hiện một hành trình tìm lại chính mình trong cái tôi trữ tình chân thực và anh luôn nhận nỗi cô đơn, sự tiếc nuối về phía mình, giọng thơ anh nhẹ nhàng, dịu dàng như chính trái tim luôn khát khao, rung cảm và cũng như chính cuộc đời của anh, hiền hòa, thân thương:

Có một tình yêu đầu đời tôi đem trao

Người con gái hững hờ không nhận

Nỗi buồn từ đó lên ngôi

 

Có một tình yêu tôi dâng cùng nỗi buồn

Người con gái ấy thuộc về người khác

Lá thu rơi vàng mặt đất

 

Có một tình yêu mang nỗi buồn lá thu

Tôi tặng em ngày cưới

Xác pháo hồn tôi tan tác

                     (Có một tình yêu, 1984)

Thi ảnh “lá thu, xác pháo” như lời từ biệt mối tình đầu, mối tình đơn phương, mối tình vô vọng… em “hững hờ”, tôi đa tình; cứ thế mà đau, mà buồn, nỗi buồn của tình yêu đầu đời dẫu có vô vọng thì vẫn đẹp bởi giọng thơ nhẹ nhàng, tứ thơ dìu dặt, cảm nhận như sợi tơ lòng đang ngân lên những nốt nhạc nhớ thương và tiếc nuối: “Thế rồi tôi cứ lặng im/ Và rồi em cũng lặng im. Thế rồi/ Tôi về ép trái tim tôi/ Nhỏ thành giọt nhớ trọn đời yêu em” (Thế rồi).

Những rung cảm đầu đời của trái tim đa cảm khi đã thành thơ thì mối tình không chỉ đẹp bởi trái tim của người đang yêu mà còn đẹp bởi sự đồng cảm của những độc giả cùng chung tâm trạng hay cùng chung nỗi buồn giống anh. Văn học không chỉ bộc lộ ở bề rộng của những kiến thức về đời sống mà chủ yếu và quan trọng hơn là ở chiều sâu của những khám phá thẩm mĩ về con người: “Đôi mắt em gieo cái nhìn trìu mến/ Chạm vào tim tôi nhói những cơn đau/ Cũng đôi mắt em bao dung, nồng ấm/ Mơ ước nào tôi đợi đã từ lâu”. Bởi vì: Có một tình yêu mỏng manh như cỏ/ Có nỗi niềm chẳng thể nói thành câu/ Rồi sẽ chết những cái nhìn đa cảm/ Rồi sẽ tan những nụ hôn đầu”. Để cuối cùng, cả hai đều nhận về mình những trầm tư, nhớ nhung và mơ mộng:

Rồi sẽ có một người con gái nhớ

Một chàng trai mơ mộng, trầm tư

Chiều sẽ xuống, nắng vàng rồi sẽ tắt

Vô tư ơi! Cho tôi được giã từ

 (Rồi sẽ - 1983)  

Ngày xanh không chỉ trữ tình và lãng mạn với đề tài muôn thuở - tình yêu - tình yêu đẹp mà buồn bởi cái tôi trữ tình càng yêu càng nhận ra nỗi cô đơn trong hành trình tìm lại chính mình; mà tập thơ còn bộc lộ cái tôi trữ tình trong “những ngày tháng thanh xuân gian khổ và đẹp nhất trong cuộc đời sinh viên của tôi” (sđd, tr.5)  

Bao năm rồi cứ thế bình yên

Dãy nhà con trai, dãy nhà con gái

Chỉ cách nhau một sắc bàng khó nói

Nên bên này, bên ấy chẳng tìm nhau

(Màu xanh ô cửa)

Kí ức một thời được khơi gợi trong cái nhìn thao thiết của nhà thơ về ô cửa màu xanh - nơi ấy có cái vô tư, hồn nhiên, cái dịu dàng, thơ ngây, cái rụt rè hồi hộp, cái đắm say của tuổi trẻ. Nơi ấy là cả một bầu trời “sinh viên” của bất cứ ai từng bước chân vào đại học - vào ở ký túc xá của nhà trường. Tất cả đã trở thành nỗi nhớ khi chia xa: “Sẽ rất nhớ dáng người con gái ấy/ Dịu dàng ơi, đôi mắt cứ lặng buồn/ Đêm chia tay bao điều không thể nói/ Mai em về kỉ niệm mù sương”. Những vần thơ thời sinh viên ấy là hành trang, là kí ức của biết bao thế hệ; nhớ thương và kỉ niệm sẽ theo ta trong suốt cuộc đời. “Em” là nguyên cớ, là điểm tựa, là khát vọng tình yêu trong mỗi con người:

Em đã sống hồn nhiên cùng với Huế

Trái tim ơi! Em chẳng hiểu em đâu

Vô tư ơi! Sao vô tư đến vậy

Thời sinh viên thành kỉ niệm rồi

 (Sẽ rất nhớ - 1984)

Ngày ra trường biết bao kỉ niệm, biết bao quyến luyến, biết bao hoài niệm, biết bao nuối tiếc: “Có cách chi để mà đừng xa cách/ Bạn bè ơi! Hoa phượng đỏ dường kia/ Tôi đã nghe một cô áo trắng/ Hát bài ca tạm biệt để chia lìa”. Để rồi còn lại một rung cảm lặng thầm, hồi hộp thời hoa đỏ mộng mơ:

Rung cảm lắm nhưng nào đâu dám nói

Để phập phồng, hồi hộp trái tim ai

 (Bài thơ chia tay)

Những vần thơ vấn vít, đan cài, tất cả như trôi chảy trong tiềm thức, kí ức và nỗi nhớ. Đó là toàn bộ nỗi niềm yêu thương, rung cảm làm nên thi pháp Ngày xanh của Hồ Thế Hà.

***

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người thơ Hồ Thế Hà đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt, tình yêu nồng cháy trong thơ từ những ngày ngồi trên giảng đường Đại học và rồi bốn mươi năm sau, Ngày xanh đã lưu giữ thời kì thanh xuân rực rỡ và tràn đầy sức sống của trái tim nhiệt huyết và hoài bão với những kỉ niệm không thể phai mờ trong tâm hồn dạt dào thi cảm Hồ Thế Hà:

Hãy nhẹ nhàng, đừng làm trăng lay động

Để dòng Hương thức suốt đêm nay

Từng đi khắp đất trời, từng chong mắt nhớ

Tôi gặp lại hồn mình qua màu Huế mê say

 (Màu Huế)

Huế, ngày mưa tháng 6/2025

H . T . T   

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm