TIN TỨC

Đói và sự thức tỉnh mình

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-12 01:26:52
mail facebook google pos stwis
816 lượt xem

Hoàng Xuân

Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.

Tác giả và nhà thơ Đỗ Thành Đồng

Nhà LLPB văn học Yến Thanh đã mổ xẻ và điểm mặt tập thơ này qua bài giới thiệu, tôi gom nó bằng mấy từ “không gian bóng đêm và cảm thức cô đơn thường trực trong Lục bát đời của Đỗ Thành Đồng…”.

Sống trong một thế giới “phẳng”, rất nhiều thứ đang dường như bị thừa thãi, nhiều thứ phải “no” đến mức kịch trần. Chuyện ăn ngon mặc đẹp, chuyện đói cơm thiếu áo không còn là vấn đề mà loài người cần phải lo nghĩ nhiều, ít nhất là 2/3 dân số trên toàn cầu. Bởi rằng, đó là thứ của cải vật chất đơn thuần phục vụ cuộc sống hằng ngày trong một xã hội đã có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế.

Đỗ Thành Đồng đã viết ĐÓI lúc 01 giờ sáng, lẽ ra cái giờ này là thời gian ngủ ngon nhất của con người, và đương nhiên khi đang ngủ ngon sẽ không ai nhận ra ĐÓI. Nhưng với Đỗ Thành Đồng, anh lại nhận ra ĐÓI một cách rất triết nghiệm:

Nửa đêm tỉnh giấc cồn cào

tìm hoài chỉ thấy mỗi sao trên trời

hớp vài ngọn gió cầm hơi

nhấm câu thơ cũ với người xa xưa

Mỗi khi đã đói, ăn uống cái gì mà chả ngon, có khi ngon đến mức bụng dạ thăng hoa. Nhưng nhà thơ đã “hớp” ngọn gió và “nhấm” nhâm nhi câu thơ cũ thì quả thật tài tình. Cũng như bản năng của tất cả chúng ta, khi đã đói thì có gì ăn nấy, miễn sao lót dạ cho cái bụng khỏi cồn cào. Nhưng nhấm và hớp những thứ ấy thì chỉ mỗi Đỗ Thành Đồng riêng có.

Thực ra, các động từ “nhấm” và “hớp” là từ địa hạt anh dùng để sấp ngữa những sự đói của xã hội thời nay, nghe như phi lý, nhưng lại rất chí lý:

trời giờ đang đói cơn mưa

đất giờ đói cả sông thưa hồ dày

biển giờ đói cả cát bay

rừng giờ biết đói cả cây đại ngàn

Cảm thức của con người trước thiên nhiên, trước cuộc sống, đôi khi “không nhận ra ta trong hữu hạn kiếp người” (Hoàng Vũ Thuật). Song đó là những sự thật đắng cay. Hàng ngàn cái đập thủy điện thành hồ đã và đang mọc lên, đó là một tài nguyên, nhưng cũng ẩn chứa vô vàn hiểm họa đối với con người. Và cây đại thụ của rừng xanh bây giờ cũng không còn nhiều, thậm chí là không còn nữa. Khi sự ra tay tàn phá của con người đến mức suy kiệt chỉ vì toan tính cuộc sống mưu sinh. Vậy nên, rừng đói cây đại thụ là một mạch cảm thức rất có lý trí.

Đến khổ thơ thứ ba, nhà thơ thì thầm:

ruộng đồng đói cánh cò ngang

nước sông đói cá phố làng đói trăng

tre già đói những mầm măng

chợ hoa đói nụ nở bằng tự nhiên

Đói cánh cò ngang, nước sông đói cá, tre già đói măng thì đã rõ. Không ai khác, cũng là tác động có ý thức của con người, nhưng vô tình các nguồn tài nguyên thiên nhiên này sẽ dần cạn kiệt. Ruộng đồng, sông suối, tre già không ĐÓI sao được, khi cuộc sống mưu sinh của một bộ phận người hoặc là vô tình, hoặc là hữu ý đang tác động vào nó một cách trắng trợn, đến mức thiên nhiên phải gióng lên những hồi chuông kêu cứu và cảnh tỉnh. Tự nhiên ĐÓI là thế, có những thứ “tự nhiên” như hoa nhưng vẫn phải ĐÓI nở tự nhiên. Bản thân của nhiều thứ tự nhiên, nhưng không phải tự nhiên, bao nhiêu loài cây, loài hoa giờ có nở tự nhiên đâu, được kích thích bằng thuốc hóa chất… Trong nhiều cái sự đói ấy, tôi vẫn phải trở trăn nhất là “phố làng đói trăng”. Sao lại phố làng đói trăng? Trăng của thiên nhiên thì không đói, nhưng trăng của lòng người thì đói thật… Trẻ em bây giờ có biết chơi trăng nữa đâu mà không đói. Tôi lại liên tưởng về một thủa đã qua, cứ có trăng sáng là trẻ em từ làng trên xóm dưới ra đường, ra sân giếng làng nô đùa, chơi trò trốn tìm, ù mọi, nhảy lò cò hay đi chợ về chợ… vui ơi là vui. Và từ đấy cũng có rất nhiều bài thơ, câu ca mô tả về trăng, về sao rất hay, ví như trong bài “Trăng sáng sân nhà em” của nhà thơ Trần Đăng Khoa:

Sân nhà em sáng quá

Nhờ ánh trăng sáng ngời

Trăng tròn như cái đĩa

Lơ lững mà không rơi

Những đêm nào trăng khuyết

Trông giống con thuyền trôi

Em đi trăng theo bước

Như muốn cùng đi chơi…

Bây giờ, trẻ con đói là thế, nhiều người lớn cũng không thích ngắm trăng hoặc không có cơ hội ngắm trăng vàng buổi tối nữa, vì bốn phía là bốn bức tường, ra đường điện sáng trưng, còn đâu ngắm được trăng. Và hình ảnh đói trăng là một cảm thức hay mà sâu, thực chứng mà phô bày.

Trong mạch suy tưởng của ĐÓI, nhà thơ viết tiếp:

con người đói phút bình yên

em tôi đói nốt cái quyền thủy chung

hoàng hôn đói tiếng chuông rung

trẻ thơ đói võng lắc cùng tiếng ru

Những câu thơ rất ám gợi và đầy những trở trăn về thế sự, nhân tình, về cuộc sống đa đoan. Phải chăng nhà thơ đã nghe được những mạch nguồn của âm thanh chất đầy trên những cổ máy của thời đại. Khi mà con người đang sống gấp gáp hơn, ích kỷ cá nhân hơn, và cả sự xô bồ của cuộc mưu sinh đầy thử thách. Chưa kể nhiều nơi trên thế giới con người chưa bao giờ có phút giây yên lặng, bởi bạo lực, bởi chiến tranh và lòng hận thù.

Tiếng chuông rung phải chăng đang đói, thực ra không đói tiếng chuông, nhưng sự ẩn dụ này rất có lý khi ngày càng có nhiều người sống bầm dập hơn với sự sinh sôi nhiều tội lỗi. Vậy thì tiếng chuông có ích gì khi mà bản thân nó không làm rung động được trái tim của những người lầm lỗi… Trẻ thơ hôm nay mấy cháu được nằm trên võng để mẹ ru, bởi rằng, các bà mẹ trẻ hiện nay đa số không thể ru được con, có chăng chỉ là hát nghêu ngao. Vậy nên, trẻ thơ đói tiếng ru là một sự trăn trở rất lớn của nhà thơ cũng như các thế hệ trước đây đang đối diện với lớp người ngày hôm nay. Vì rằng, trong tiếng ru giúp trẻ hình thành được rất nhiều thứ tình yêu thiêng liêng, mà trước hết là tình yêu con người. Tiếng ru con có nhiều tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của một đứa trẻ. Nó giúp trẻ thư giãn, ngủ ngon hơn, gắn kết tình cảm mẹ con, hình thành kỹ năng ngôn ngữ, tạo cảm giác an toàn và rèn luyện kỹ năng nghe. Vậy mà vắng tiếng ru thì quả thật đáng tiếc.

Kết thức bài thơ, nhà thơ chia sẻ:

còn tôi tóc đã sương mù

đói vòng tay mẹ cũng như dại khờ

Từ thế sự, tác giả trở về với thực tại của bản thân, và mẹ… Đó là một cuộc đối thoại và kết nối giữa thế sự với ký ức trong một khung cảnh cụ thể và đầy nhân tình thế thái.

Còn tôi, ĐÓI là một sự thức tỉnh mình.

00h, 02/8/2025

(Nhân đọc tập thơ Lục bát đời của Đỗ Thành Đồng)

H.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm