TIN TỨC

Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-14 01:06:22
mail facebook google pos stwis
200 lượt xem

Đỗ Nguyên Thương

Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là  đầu đề, là cái "tít" chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.

Nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên – Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Cần Thơ.

Nhan đề phải khái quát ở mức cao về nội dung tư tưởng của văn bản, của tác phẩm; phải nói cô đọng được nội dung cốt lõi của tác phẩm. Do đó, nhan đề giữ vị trí quan trọng đối với không chỉ người sáng tác mà đối với cả người tiếp nhận. Đặt được nhan đề cho tác phẩm rất quan trọng, quan trọng như đặt tên cho đứa con của mình vậy! Và hôm nay được anh - Nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ tặng sách, tôi đã thật ngỡ ngàng trước nhan đề của tập thơ Hãy sống như những người đã chết.

Đây chính lả một nhan đề dụng công. Rất có thể khi cầm bút viết tên cho tập thơ của mình anh đã thật nhẹ nhàng chứ không nhọc công nhưng tôi chắc chắn anh đã từng dụng công trong tiềm thức!

Văn học nghệ thuật có một hiện tượng lạ là có khi người ta viết bằng tiềm thức. Phê bình cũng không ngoại lệ. Chẳng phải thế sao? Nhà thơ Hoàng Cầm nói “Bài thơ Lá diêu bông tôi viết về một câu chuyện có thật, câu chuyện về mối tình đầu tiên trong đời tôi. Vào một đêm năm 1959, khoảng 3 giờ sáng, tôi chợt tỉnh giấc rồi thao thức không ngủ lại được. Căn nhà ở phố Lý Quốc Sư nằm sâu phía trong, lại thêm thuở ấy ban đêm không có tiếng xe tiếng còi ầm ĩ như bây giờ, nên đêm khuya càng thêm thanh vắng. Chợt tôi thấy lóe trong đầu văng vẳng mấy câu thơ do một người đàn bà đọc bằng giọng lanh lảnh: Váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng...

Tôi lấy ngay cây bút chì và tập giấy luôn để sẵn trên đầu giường ghi lại. (Nguồn Internet - Báo Bình Dương). 

Theo Tuy Hòa, báo Nông nghiệp và Môi trường, nhà thơ Hoàng Cầm kể: “Một đêm, tôi ở phố Lý Quốc Sư - Hà Nội, có lẽ quá nửa khuya rồi, tôi trằn trọc nửa thức nửa ngủ, nửa mê nửa tỉnh… Trong cái đêm bồn chồn ấy, tôi chợt nghe tiếng văng vẳng bên tai như có ai nói, giọng phụ nữ, không phải giọng chị Vinh, không phải xa xôi lắm như tự kiếp nào chứ không phải của kiếp này….” Và nhà thơ chỉ việc chép lại. Đó là hoàn cảnh ra đời của bài thơ nổi tiếng Lá diêu bông.

 

Trường hợp Nguyễn Vinh Tiến, thiết nghĩ, anh sáng tác bài hát Bà tôi do tiềm thức còn Ông tôi là do ý thức! Có thể anh yêu ông bà như nhau nhưng Bà tôi là ca khúc được đông đảo công chúng hào hứng đón nhận hơn Ông tôi. Viết bằng tiềm thức là kết quả của sự thôi thúc mãnh liệt từ bên trong! còn được gọi những cái tên khác như “viết như lên đồng”  hoặc “như ma ám”... Khi đó người viết (văn, thơ, nhạc, hoạ…) không phải suy nghĩ nhiều vẫn có tác phẩm hay. Có thể hiểu cách khác là người viết đã dụng tâm, chủ ý từ lâu và điều đó được tích luỹ ngầm, dần dần tràn đầy trong tâm trí; khi đã đủ độ chín thì không cần dụng công, tác phẩm sẽ ra đời rất nhanh. Với nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên, cách đặt nhan đề kia cũng vậy!

Có một hiện tượng là ngày nay không ít bài báo giật tít câu like nên đã đặt tên cho bài của mình thật “giật gân” và cũng nhiều khi cách đó đưa người đọc đến sự thất vọng sau khi đọc tác phẩm. Với Nguyễn Trung Nguyên thì không! nhan đề gây chú ý, gây sự tò mò là lẽ đương nhiên, nhưng, nó không đưa cho người đọc một cảm giác câu like giật tít mà lại khiến người đọc tò mò khám phá

Hành trình cuộc đời mỗi người không ai chệch ra khỏi quy luật sinh - lão - bệnh - tử, vậy nên khi dân số trên trái đất tăng lên đồng nghĩa với người chết cũng tăng lên. Và tất nhiên có những cái chết do quy luật và có những cái chết do chủ động (hiện tượng nhà văn Quỳnh Dao - Trung Quốc, gần đây).

Vậy ở đây Nguyễn Trung Nguyên nói đến cái chết nào? Tìm hiểu một bài thơ được lấy nhan đề làm tên chung cho cả tập, để hiểu phần nào triết lý, suy tư, suy cảm, cảm nghiệm của thi sỹ.

Tôi sinh ra vào những ngày tháng tư lịch sử/Các anh nằm xuống đã lâu/Năm mươi năm đất nước mình thay đổi/ Tôi sinh ra vào những ngày tháng tư lịch sử/Cha bảo “Con đến tuổi lập thân!”

Khổ thơ đầu tựa như lời dẫn truyện, nhẹ nhàng, tự nhiên và rất đỗi chân thành. Tháng tư lịch sử được nhắc đến như nhắc về kỷ niệm thân thiết, thiêng liêng. Có lời người cha thủ thỉ, có sự tiếp nối dòng lịch sử, dòng đời. Và cũng rất nhẹ nhàng là lời kể

Chúng tôi lớn lên đã hết chiến tranh/Chẳng biết “lễ truy điệu trước giờ ra trận/Không thể hình dung “củ mài- lá bép”/Một bữa ăn sáng bây giờ cũng cân nhắc “dở - ngon”.

Sinh ra trong thời bình và thụ hưởng cuộc sống hòa bình, mấy ai hiểu sự gian khó, hy sinh của một thời cha ông “củ mài- lá bép” thay cơm; không hiểu được trước mỗi giờ ra trận cha anh mình lại làm lễ truy điệu cho đồng đội. Bỗng dưng tôi nhớ tới hình ảnh rừng xà nu trong trang văn Nguyên Ngọc, cây xà nu lớn bị thương, bầm máu và cây xà nu dính đạn ngã xuống bên cạnh những cây xà nu con mọc lên, vươn mình khỏe khắn dưới ánh nắng mặt trời.

Và đọc thơ Nguyên Trung Nguyên, tôi cũng nhớ về một thời đi học, đọc say sưa thơ Tố Hữu. Nếu như xưa kia Tố Hữu từng viết “Đường ta rộng thênh thang tám thước”, hạnh phúc thời điểm đó như vậy, con đường tám thước là rộng. Ngày nay Năm mươi năm rồi đường cao tốc thênh thang/ Hà Nội - Cà Mau chỉ là chuyện nhỏ. Câu thơ của Nguyễn Trung Nguyên nói trực diện về sự tiến triển vượt bậc của hạ tầng cơ sở, của đất nước 50 năm sau chiến tranh. Nếu là người bình thường, chắc chỉ nhận thấy ít thôi, thậm chí không nhận thấy sự tiến bộ vượt bậc về đời sống kia đã được đánh đổi, được trả giá bằng bao nhiêu xương máu của các anh hùng, liệt sỹ. Từng trải và suy nghĩ sâu sắc với cuộc đời, thi sỹ Trung Nguyên cảm nhận Một cung đường thôi - có người đi mãi không về. Và vẫn trong dòng hoài niệm, nhớ nhung đồng đội, biết ơn các anh hùng, liệt sỹ, nhà thơ viết những dòng thơ như chắt ra từ cõi lòng đau khôn tả khi có những người hồn nhiên ra trận không về, có người nằm xuống cho thế hệ sau sung túc trong tiện nghi ngập lối. Có nghười được bảng vàng ghi danh rõ tên, rõ tuổi, có nhiều người Thân xác hóa vào hồn thiêng sông núi. Nhiều người “hồn nhiên” ra đi, nhưng nỗi đau còn vương vấn mãi trong lòng người thân, có những bà mẹ Nhiều đêm mẹ giật mình ngồi dậy/Quờ tay tìm “mộ con đâu?!. Đọc thơ Nguyễn Trung Nguyên, thấy một trường hoài niệm; đọc thơ Nguyễn Trung Nguyên thấy sự so sánh cặp đôi được sử dụng với mật độ khá dày khi nói về “chúng tôi” - những người đang sống, đang hưởng thụ vật chất, tiện nghi thời bình với “các anh” sống giản đơn quá đỗi, Chỉ hương bưởi thơm vấn vít tim mình... Và nữa, khi chúng tôi “nhấp chuột” là thấy mặt người yêu dù xa nhau cả ngàn cây số, còn các anh vĩnh viễn để lại thanh xuân trên chiến trường. Thật sự ám ảnh những câu thơ như

Các anh hồn nhiên ra trận không về/Chúng tôi bước vào tương lai lạc quan rộng mở

Và sâu đằm một cõi tri ân Các anh nằm xuống cho chúng tôi đứng thẳng/Mặt trời trên đầu, bóng bia mộ nghiêng nghiêng. Mặt trời là nhân chứng, mặt trời chứng ngộ cả đau khổ và hạnh phúc. Mặt trời tồn tại vĩnh viễn, các anh nằm lại chiến trường. Mặt trời bất tử và các anh cũng hóa vào hồn thiêng sông núi. Chiều sâu của thơ Nguyễn Trung Nguyên không chỉ tồn tại trong câu chữ, còn tồn tại trong những ẩn dụ, so sánh ví von và liên tưởng đa chiều.

Không phải ai cũng nhận thức được sâu sắc như nhà thơ Nguyễn Trung Nguyên rằng “Hạnh phúc ngọt ngào/Thiêng liêng lắm nỗi đau”. Nhà thơ nói bằng trải nghiệm và suy cảm, nói bằng lương tri và sự biết ơn sâu sắc đối với các anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống cho Tổ quốc thiêng liêng mãi mãi trường tồn.

Đọc xong bài thơ chúng ta hiểu Nguyễn Trung Nguyên nói đến cái chết của những anh hùng liệt sỹ - sự ra đi của họ làm vẻ vang sông núi này. Bất luận họ đã ra đi như thế nào nhưng chỉ riêng việc họ xuất hiện ở chiến trường, cầm súng chiến đấu là hành động đẹp, hành động cao cả, không chỉ vì cái tôi, không ích kỷ, không tính toán nhỏ nhen. Và tất nhiên Hãy sống như những người đã chết còn bao hàm nghĩa ở thế giới đó không còn sự bon chen, chỉ có sự đoàn kết và ấm áp yêu thương…

Hãy sống như những người đã chết là bài thơ gọn gàng hàm chứa một  thông điệp giàu giá trị nhân văn, thấm đượm triết lý và ý vị nhân sinh sâu sắc của phương Đông khiến mỗi chúng ta sau khi đọc xong đều cảm nhận được một cách hết sức nhẹ nhàng và thấm thía về thông điệp cảnh tỉnh và tri ân, để từ đó điều chỉnh lối sống của mình, trân trọng hơn từng phút giây của cuộc sống và biết ơn sâu sắc hơn đối với thế hệ cha ông đã ngã xuống cho chúng ta được đứng thẳng hôm nay. 

Việt Trì, ngày 22/7/2025

Đ.N.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm