TIN TỨC

Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-01 17:18:53
mail facebook google pos stwis
1277 lượt xem

Nhà thơ ĐỖ XUÂN THU
(Đọc tập thơ “Ru lại lời quê” của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh)

Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách. Kỷ niệm thời ấu thơ, về những ngày ở quê bất chợt cứ ùa về. Biết bao nhiêu kỷ niệm, ký ức cứ thay nhau hiển hiện trở về. Hơn nữa đây lại là những người thơ, thi sĩ rất dễ rung động, ngập tràn yêu thương và hay trải lòng mình trước cuộc sống. Thiếu tá nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh cũng không nằm ngoài quy luật ấy và anh đã gieo con chữ trên những cánh đồng lãng mạn làm cho ký ức trở về sống động cùng với hôm nay.

Trên tay tôi là bản thảo tập thơ “Ru lại lời quê”, đây là tập thơ thứ sáu và là tác phẩm thứ tám trong đời thơ, đời văn, đời báo của Nguyễn Vũ Quỳnh. Theo thói quen, ban đầu tôi đọc lướt qua để hình dung một cách khái quát toàn bộ nội dung tập thơ. Sau đó tôi đọc lại từ từ một cách chậm rãi, kỹ càng. Càng đọc tôi càng thấy nỗi niềm đau đáu với làng quê của anh cứ dạt dào theo từng câu chữ. Quê gốc ở Nghệ An, sinh ra ở Thanh Hóa, là bộ đội thời chống Mỹ, từng làm báo, viết văn, làm thơ trong quân ngũ, rồi rong ruổi khắp nơi, cuối đời Nguyễn Vũ Quỳnh trụ lại ở thành phố Hồ Chí Minh. Thảo nào, ở cái tuổi U70, vị thiếu tá quân đội có tâm hồn thi sĩ ấy lại đau đáu nhớ quê đến thế! “Cái phận đi xa cả đời phiêu lãng/ Đêm nằm mơ gốc rạ lời ru/ Con cáy đỏ chờn vờn trong giấc ngủ/ Trắng ngọn khoai sau trận mưa rào” (Chật ních cả hôm nay). Và tôi cũng đang theo những bước chân kỷ niệm của anh để nghe anh “Ru lại lời quê” đây.

Sáu mươi bài thơ trong tập thì có quá nửa số bài tác giả trải lòng với quê hương. Từ cánh đồng lúa khoai đến người mẹ tảo tần, từ giếng làng, con đê, đến bến xưa đò xưa lặng lẽ, từ trường học, bè bạn đến người thương dấu yêu...Tất cả cứ lung linh dắt díu nhau hiện về trên trên cánh đồng thơ của anh.

Mở đầu tập thơ là bài “Chất vấn cánh đồng” đầy ám ảnh. “Bên kia cánh đồng làng. Khoai / Bên này cánh đồng làng. Lúa”. Chỉ bằng hai nét bút chấm phá đó mà không gian quê anh, cánh đồng lúa, khoai đã hiện lên rờ rỡ. Chính từ cái nơi lúa, khoai đó anh đã “Lớn lên chúng mình như hương hoa cải/ Bay xa để lại quê nhà”. Hoa cải về trời, hoa cải bay đâu ơi thi sĩ của cánh đồng làng? Để “Bây giờ bóng quê chất đầy chiêm nghiệm/ Nhà xây nhiều cái lên tầng/ Cánh đồng bê tông cốt thép/ Nhà máy khói bay vấp cản mây trời/ Cánh đồng không còn, vắng hẳn bóng cây”. Nhớ về ngày xưa, cái thời “Muối trắng trên vai áo cha/ Mồ hôi ướt đầm sau lưng áo Mẹ”, cái thời “Thương bắp chân trần con gái/ Vội vàng chao giữa cầu ao/ Ống quần vương bùn hương đất”. Thi sĩ đã phải thốt lên xa xót bằng khổ lục bát cuối bài “Đâu rồi bông trắng như mây/ Để cho con cháu về đây thưở nào/ Lạnh về ngọn gió hanh hao/ Con sông không chảy, ồn ào quê xưa/ Làng không còn tiếng võng đưa/ Trẻ con không tắm dưới mưa tồng ngồng/ Chia xa rũ rượi cánh đồng/ Chiều qua quê mất cả dòng sông xưa”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa...bao nhiêu cái “hóa” khác đã làm bộ mặt quê hương khác xa ngày trước quá. Vẫn biết đổi mới, đi lên là tất yếu mà sao vẫn tiếc nuối cánh đồng làng xưa quá chừng. Phải thế không mà tác giả đã bực mình “Cãi nhau với cả thời gian/ Chất vấn được mất cánh đồng”. Một cuộc cãi nhau, chất vấn thật đáng yêu. Chẳng thể nào khác được đâu thi sĩ của tôi ạ.

“Bao nhiêu ngần ấy với quê/ Vẫn thao thức mãi ngày về đêm nay” (Tự tình với quê). Ngày mai về quê, đêm nay thao thức hay là về quê rồi mà thao thức cả đêm với quê? Kiểu nào thì quê vẫn cứ choán hết cả người thơ. Trăn trở lắm phải không anh? “Bếp nhà một góc vại dưa/ Con rô, con diếc, đồng trưa, chợ làng/ Gió Lào rang cháy cỏ hoang/ Vẫn vang vọng tiếng dộ khoan bến Sòng” (Cánh đồng mẹ tôi). Ôi, nhớ “Tiếng chim gáy vắt qua hàng tre” quá! Nhớ vô cùng “Nơi đồng xa liệu xiêu dáng mẹ/ Vẫn dành con đồng bánh chợ quê mình” (Chật ních cả hôm nay). Nhớ da diết “Nơi tuổi thơ bên cọng rơm gốc rạ/ Nơi tiếng còi tàu vang vọng sân ga/ Nơi trẻ con oẳn tù tì đánh đáo/ Nơi tiếng bom thù xé nát cả làng quê” (Cánh đồng quê ơi). Bao nhiêu là nhớ quê ơi để “Ký ức cứ tràn lên” ào ạt thế này? Để “Nỗi nhớ ùa về chật ních cả hôm nay” phải không anh? Cả đêm thao thức hoài niệm, vả đêm bâng khuâng nôn nao để rồi cuối cùng vẫn cứ nhận ra rằng: “Bao nhiêu phiên khúc đời mình/ Chưa bằng đời ngói sân đình làng tôi”. Thì đúng thế rồi còn gì? Dù vật đổi sao dời thì nhân chứng thời gian của làng vẫn là sân đình, bến nước, cây đa, văn hóa làng quê ngàn năm đó.

Nguyễn Vũ Quỳnh đã viết cho người xa quê, trong đó có anh, bài thơ “Thương miền quê xa”. Điểm đặc biệt của bài thơ này là tác giả dùng điệp từ “quê” liên tục mở đầu cho mỗi câu thơ. Cả bài có 42 câu thơ thì có tới 37 câu mở đầu như thế. Từ những nét đặc trưng chung nhất về quê, anh đi tới quê của các vùng miền khác nhau. “Quê là tất cả niềm tin /Quê nơi hoa gạo về tìm tháng Ba”. Từ Ví dặm Nghệ Tĩnh đến Quan họ Kinh Bắc, từ Chèo cổ Thái Bình, đến Dạ cổ Hoài lang Bạc Liêu, từ Thị Kính, Thị Mầu đến chú hề, quan tướng...từ quê mà ra. Tất cả bản sắc vùng miền, truyền thống địa phương đã làm nên căn cốt quê hương nhắc nhở người đi xa hãy nhớ để “Còn bao nhiêu những đam mê/ Ta gom góp lại đem về với xưa (Đếm khuya). Thì thế mới có bài thơ lục bát đáng yêu “Về nơi neo đậu bến tình với quê” với điệp từ “Về” dày đặc đến vậy chứ. 22 câu trong tổng số 24 câu của bài đều bắt đầu bằng chữ “Về”. Giục giã lắm, da diết lắm. “Về đi em giữa yêu thương/ Về nơi tiếng trống sân trường ngày xưa/ Về nơi ta vấp cơn mưa/ Về nơi có Mẹ võng đưa một thời”. Khúc mở đầu là vậy đó. Tác giả rủ rê, dắt díu cô bạn ngày xưa học chung một lớp về chốn xưa trường cũ, về với Mẹ, với cơn mưa lấm láp thuở nào. Sau đó, anh đã liệt kê ra một loạt các kỷ niệm, từ “đồi tím hoa sim” đến “vạt sắn nương khoai”, từ “giếng nước hàng cau” đến “cửa biển xa khơi”, từ nơi hò hẹn ban đầu đến “nơi ao ước cây cầu em sang”. Nhiều, nhiều lắm. Dồn dập ký ức, chất chồng kỷ niệm. Cái nọ nhắc nhớ níu gọi cái kia để rồi cặp lục bát cuối cùng anh phải tăng thêm một từ “về” nữa thành ba lần “về” để chốt lại: “Về nhé em, về đi thôi/ Về quê lên đỉnh bồi hồi gặp xưa”. Cắt câu lục thành hai nửa, mỗi nửa bắt đầu bằng chữ “về” càng thấy sự cuống quýt, giục giã của anh. Viết như vậy, bạn gái anh đọc được thì làm sao mà không về được cơ chứ?

Về quê trước cái giếng cổ bom Mỹ phá rồi không còn nữa, Nguyễn Vũ Quỳnh đã xót xa tưởng nhớ nơi mà “Giếng quê điểm hẹn nhân tình/ Những đôi trai gái và mình với ta”… “Nơi đây bến đợi những chiều/ Tiếng nhà quê tiếng sáo diều võng đưa (Giếng quê) Thế mà giờ đây, cái giếng ấy đã không còn nữa, sao mà không xót xa được? Thì thế trong đêm anh mới “Khuya về chấp chới chiêm bao/ Nụ cười bên giếng lật nhào trời quê” đấy chứ.

Cùng nỗi niềm chênh chao ấy, Nguyễn Vũ Quỳnh còn dồn nén tâm trạng mình trong ba bài thơ về “Cánh đồng”: “Chất vấn cánh đồng”, “Cánh đồng Mẹ tôi”, “Cánh đồng quê ơi!”. Cũng dễ hiểu thôi, nông thôn Việt Nam, làng quê Việt Nam đều gắn với sản xuất nông nghiệp mà sản xuất nông nghiệp thì lại gắn với cánh đồng. Thế nên, ký ức về quê cha đất tổ nhiều hơn cả đều xuất phát từ cánh đồng. Tuổi thơ lấm láp, cắt cỏ chăn trâu, mẹ cha cày cuốc đều ở đó. Ngay đầu tập thơ tác giả đã giới thiệu “cánh đồng” rồi. Đặc biệt, trước sự đổi thay, biến mất dần của cánh đồng làng khiến anh càng khắc khoải. “Bây giờ làng không còn cánh đồng xanh/ Không bờ tre khi làng lên phố”… “Cánh đồng bê tông, trâu không còn gặm cỏ”… “Làng vắng hát chèo, trẻ bốc mùi rock rap/ Ai cũng bật cười đầu tóc đỏ, tóc xanh”. Làng quê như thế, cánh đồng làng như thế sao mà không trăn trở được phải không anh?

“Quê em nơi khe Dứa, khe Su/ Có tên Phú Lâm ven rừng cổ thụ/ Có đêm khuya ông bà, cha mất ngủ/ Cơm độn lưng nồi Mẹ đơm cả lời ru (Gửi Ánh Sao). Ơi cái vùng quê nghèo ngày xưa sao mà thương đến thế! Tên xóm, tên làng đã theo ta suốt dọc đường đời, khắp cùng đất nước. Và “Cơm độn lưng nồi, Mẹ đơm cả lời ru”. “Đơm cả lời ru” rất ám ảnh đấy thi sĩ ạ. Bây giờ giữa những mâm cao cỗ đầy, bao đặc sản Tây, Tàu các loại liệu có ai còn nhớ đến ngày xưa? Cái ngày mà “cơm độn lưng nồi”, thương ta, Mẹ gạn phần cơm xới cho ta, Mẹ “đơm cả lời ru” trong đó? Câu thơ khiến tôi xúc động nghẹ ngào trào nước mắt và nhớ Mẹ tôi quá chừng thi sĩ ơi! Anh sống có trách nhiệm, nặng lòng với quê hương, bè bạn.

“Ru lại lời quê” được Nguyễn Vũ Quỳnh thể hiện với các thể loại thơ. Từ lục bát truyền thống đến ngũ ngôn, thất ngôn, từ tứ tuyệt chặt chẽ đến tự do tung tẩy. Lời thơ mộc mạc mà đẹp, câu chữ đầy yêu thương lưu luyến, ý tứ sâu sắc nên câu thơ dễ thấm vào lòng người. Độc giả dễ nhớ bởi Nguyễn Vũ Quỳnh đã thi vị hóa ngôn ngữ xa xưa may mà còn trong kỷ niệm, bởi anh đã gieo cái chất quê đẹp đẽ làm mát lòng người  đương đại. “Ru lại lời quê” là nỗi niềm đau đáu với quê của thi sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh. Anh đã nói hộ nhiều người về cùng một nỗi niềm gan ruột đó. Vì sao anh lại lấy tên tập thơ là “Ru lại lời quê” bởi chỉ có lời ru mới nhớ lâu trong tâm trí con người. Lời ru là sự ân tình luôn nhắc nhở mình cả khi lớn lên, đi xa, đến già nua còn nhớ và anh “Ru lại lời quê” ân tình là ý nghĩa nhất. Cả đời mắc nợ quê hương, bằng tập thơ này anh đã trả được phần nào cái nợ ân tình rồi đấy thi sĩ ạ. Xin được hân hoan niềm vui tác phẩm mới của thi sỹ đầy ý nghĩa trong thời buổi ngày nay.

Đ.X.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm