TIN TỨC

Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-01 17:18:53
mail facebook google pos stwis
1368 lượt xem

Nhà thơ ĐỖ XUÂN THU
(Đọc tập thơ “Ru lại lời quê” của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh)

Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách. Kỷ niệm thời ấu thơ, về những ngày ở quê bất chợt cứ ùa về. Biết bao nhiêu kỷ niệm, ký ức cứ thay nhau hiển hiện trở về. Hơn nữa đây lại là những người thơ, thi sĩ rất dễ rung động, ngập tràn yêu thương và hay trải lòng mình trước cuộc sống. Thiếu tá nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh cũng không nằm ngoài quy luật ấy và anh đã gieo con chữ trên những cánh đồng lãng mạn làm cho ký ức trở về sống động cùng với hôm nay.

Trên tay tôi là bản thảo tập thơ “Ru lại lời quê”, đây là tập thơ thứ sáu và là tác phẩm thứ tám trong đời thơ, đời văn, đời báo của Nguyễn Vũ Quỳnh. Theo thói quen, ban đầu tôi đọc lướt qua để hình dung một cách khái quát toàn bộ nội dung tập thơ. Sau đó tôi đọc lại từ từ một cách chậm rãi, kỹ càng. Càng đọc tôi càng thấy nỗi niềm đau đáu với làng quê của anh cứ dạt dào theo từng câu chữ. Quê gốc ở Nghệ An, sinh ra ở Thanh Hóa, là bộ đội thời chống Mỹ, từng làm báo, viết văn, làm thơ trong quân ngũ, rồi rong ruổi khắp nơi, cuối đời Nguyễn Vũ Quỳnh trụ lại ở thành phố Hồ Chí Minh. Thảo nào, ở cái tuổi U70, vị thiếu tá quân đội có tâm hồn thi sĩ ấy lại đau đáu nhớ quê đến thế! “Cái phận đi xa cả đời phiêu lãng/ Đêm nằm mơ gốc rạ lời ru/ Con cáy đỏ chờn vờn trong giấc ngủ/ Trắng ngọn khoai sau trận mưa rào” (Chật ních cả hôm nay). Và tôi cũng đang theo những bước chân kỷ niệm của anh để nghe anh “Ru lại lời quê” đây.

Sáu mươi bài thơ trong tập thì có quá nửa số bài tác giả trải lòng với quê hương. Từ cánh đồng lúa khoai đến người mẹ tảo tần, từ giếng làng, con đê, đến bến xưa đò xưa lặng lẽ, từ trường học, bè bạn đến người thương dấu yêu...Tất cả cứ lung linh dắt díu nhau hiện về trên trên cánh đồng thơ của anh.

Mở đầu tập thơ là bài “Chất vấn cánh đồng” đầy ám ảnh. “Bên kia cánh đồng làng. Khoai / Bên này cánh đồng làng. Lúa”. Chỉ bằng hai nét bút chấm phá đó mà không gian quê anh, cánh đồng lúa, khoai đã hiện lên rờ rỡ. Chính từ cái nơi lúa, khoai đó anh đã “Lớn lên chúng mình như hương hoa cải/ Bay xa để lại quê nhà”. Hoa cải về trời, hoa cải bay đâu ơi thi sĩ của cánh đồng làng? Để “Bây giờ bóng quê chất đầy chiêm nghiệm/ Nhà xây nhiều cái lên tầng/ Cánh đồng bê tông cốt thép/ Nhà máy khói bay vấp cản mây trời/ Cánh đồng không còn, vắng hẳn bóng cây”. Nhớ về ngày xưa, cái thời “Muối trắng trên vai áo cha/ Mồ hôi ướt đầm sau lưng áo Mẹ”, cái thời “Thương bắp chân trần con gái/ Vội vàng chao giữa cầu ao/ Ống quần vương bùn hương đất”. Thi sĩ đã phải thốt lên xa xót bằng khổ lục bát cuối bài “Đâu rồi bông trắng như mây/ Để cho con cháu về đây thưở nào/ Lạnh về ngọn gió hanh hao/ Con sông không chảy, ồn ào quê xưa/ Làng không còn tiếng võng đưa/ Trẻ con không tắm dưới mưa tồng ngồng/ Chia xa rũ rượi cánh đồng/ Chiều qua quê mất cả dòng sông xưa”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa...bao nhiêu cái “hóa” khác đã làm bộ mặt quê hương khác xa ngày trước quá. Vẫn biết đổi mới, đi lên là tất yếu mà sao vẫn tiếc nuối cánh đồng làng xưa quá chừng. Phải thế không mà tác giả đã bực mình “Cãi nhau với cả thời gian/ Chất vấn được mất cánh đồng”. Một cuộc cãi nhau, chất vấn thật đáng yêu. Chẳng thể nào khác được đâu thi sĩ của tôi ạ.

“Bao nhiêu ngần ấy với quê/ Vẫn thao thức mãi ngày về đêm nay” (Tự tình với quê). Ngày mai về quê, đêm nay thao thức hay là về quê rồi mà thao thức cả đêm với quê? Kiểu nào thì quê vẫn cứ choán hết cả người thơ. Trăn trở lắm phải không anh? “Bếp nhà một góc vại dưa/ Con rô, con diếc, đồng trưa, chợ làng/ Gió Lào rang cháy cỏ hoang/ Vẫn vang vọng tiếng dộ khoan bến Sòng” (Cánh đồng mẹ tôi). Ôi, nhớ “Tiếng chim gáy vắt qua hàng tre” quá! Nhớ vô cùng “Nơi đồng xa liệu xiêu dáng mẹ/ Vẫn dành con đồng bánh chợ quê mình” (Chật ních cả hôm nay). Nhớ da diết “Nơi tuổi thơ bên cọng rơm gốc rạ/ Nơi tiếng còi tàu vang vọng sân ga/ Nơi trẻ con oẳn tù tì đánh đáo/ Nơi tiếng bom thù xé nát cả làng quê” (Cánh đồng quê ơi). Bao nhiêu là nhớ quê ơi để “Ký ức cứ tràn lên” ào ạt thế này? Để “Nỗi nhớ ùa về chật ních cả hôm nay” phải không anh? Cả đêm thao thức hoài niệm, vả đêm bâng khuâng nôn nao để rồi cuối cùng vẫn cứ nhận ra rằng: “Bao nhiêu phiên khúc đời mình/ Chưa bằng đời ngói sân đình làng tôi”. Thì đúng thế rồi còn gì? Dù vật đổi sao dời thì nhân chứng thời gian của làng vẫn là sân đình, bến nước, cây đa, văn hóa làng quê ngàn năm đó.

Nguyễn Vũ Quỳnh đã viết cho người xa quê, trong đó có anh, bài thơ “Thương miền quê xa”. Điểm đặc biệt của bài thơ này là tác giả dùng điệp từ “quê” liên tục mở đầu cho mỗi câu thơ. Cả bài có 42 câu thơ thì có tới 37 câu mở đầu như thế. Từ những nét đặc trưng chung nhất về quê, anh đi tới quê của các vùng miền khác nhau. “Quê là tất cả niềm tin /Quê nơi hoa gạo về tìm tháng Ba”. Từ Ví dặm Nghệ Tĩnh đến Quan họ Kinh Bắc, từ Chèo cổ Thái Bình, đến Dạ cổ Hoài lang Bạc Liêu, từ Thị Kính, Thị Mầu đến chú hề, quan tướng...từ quê mà ra. Tất cả bản sắc vùng miền, truyền thống địa phương đã làm nên căn cốt quê hương nhắc nhở người đi xa hãy nhớ để “Còn bao nhiêu những đam mê/ Ta gom góp lại đem về với xưa (Đếm khuya). Thì thế mới có bài thơ lục bát đáng yêu “Về nơi neo đậu bến tình với quê” với điệp từ “Về” dày đặc đến vậy chứ. 22 câu trong tổng số 24 câu của bài đều bắt đầu bằng chữ “Về”. Giục giã lắm, da diết lắm. “Về đi em giữa yêu thương/ Về nơi tiếng trống sân trường ngày xưa/ Về nơi ta vấp cơn mưa/ Về nơi có Mẹ võng đưa một thời”. Khúc mở đầu là vậy đó. Tác giả rủ rê, dắt díu cô bạn ngày xưa học chung một lớp về chốn xưa trường cũ, về với Mẹ, với cơn mưa lấm láp thuở nào. Sau đó, anh đã liệt kê ra một loạt các kỷ niệm, từ “đồi tím hoa sim” đến “vạt sắn nương khoai”, từ “giếng nước hàng cau” đến “cửa biển xa khơi”, từ nơi hò hẹn ban đầu đến “nơi ao ước cây cầu em sang”. Nhiều, nhiều lắm. Dồn dập ký ức, chất chồng kỷ niệm. Cái nọ nhắc nhớ níu gọi cái kia để rồi cặp lục bát cuối cùng anh phải tăng thêm một từ “về” nữa thành ba lần “về” để chốt lại: “Về nhé em, về đi thôi/ Về quê lên đỉnh bồi hồi gặp xưa”. Cắt câu lục thành hai nửa, mỗi nửa bắt đầu bằng chữ “về” càng thấy sự cuống quýt, giục giã của anh. Viết như vậy, bạn gái anh đọc được thì làm sao mà không về được cơ chứ?

Về quê trước cái giếng cổ bom Mỹ phá rồi không còn nữa, Nguyễn Vũ Quỳnh đã xót xa tưởng nhớ nơi mà “Giếng quê điểm hẹn nhân tình/ Những đôi trai gái và mình với ta”… “Nơi đây bến đợi những chiều/ Tiếng nhà quê tiếng sáo diều võng đưa (Giếng quê) Thế mà giờ đây, cái giếng ấy đã không còn nữa, sao mà không xót xa được? Thì thế trong đêm anh mới “Khuya về chấp chới chiêm bao/ Nụ cười bên giếng lật nhào trời quê” đấy chứ.

Cùng nỗi niềm chênh chao ấy, Nguyễn Vũ Quỳnh còn dồn nén tâm trạng mình trong ba bài thơ về “Cánh đồng”: “Chất vấn cánh đồng”, “Cánh đồng Mẹ tôi”, “Cánh đồng quê ơi!”. Cũng dễ hiểu thôi, nông thôn Việt Nam, làng quê Việt Nam đều gắn với sản xuất nông nghiệp mà sản xuất nông nghiệp thì lại gắn với cánh đồng. Thế nên, ký ức về quê cha đất tổ nhiều hơn cả đều xuất phát từ cánh đồng. Tuổi thơ lấm láp, cắt cỏ chăn trâu, mẹ cha cày cuốc đều ở đó. Ngay đầu tập thơ tác giả đã giới thiệu “cánh đồng” rồi. Đặc biệt, trước sự đổi thay, biến mất dần của cánh đồng làng khiến anh càng khắc khoải. “Bây giờ làng không còn cánh đồng xanh/ Không bờ tre khi làng lên phố”… “Cánh đồng bê tông, trâu không còn gặm cỏ”… “Làng vắng hát chèo, trẻ bốc mùi rock rap/ Ai cũng bật cười đầu tóc đỏ, tóc xanh”. Làng quê như thế, cánh đồng làng như thế sao mà không trăn trở được phải không anh?

“Quê em nơi khe Dứa, khe Su/ Có tên Phú Lâm ven rừng cổ thụ/ Có đêm khuya ông bà, cha mất ngủ/ Cơm độn lưng nồi Mẹ đơm cả lời ru (Gửi Ánh Sao). Ơi cái vùng quê nghèo ngày xưa sao mà thương đến thế! Tên xóm, tên làng đã theo ta suốt dọc đường đời, khắp cùng đất nước. Và “Cơm độn lưng nồi, Mẹ đơm cả lời ru”. “Đơm cả lời ru” rất ám ảnh đấy thi sĩ ạ. Bây giờ giữa những mâm cao cỗ đầy, bao đặc sản Tây, Tàu các loại liệu có ai còn nhớ đến ngày xưa? Cái ngày mà “cơm độn lưng nồi”, thương ta, Mẹ gạn phần cơm xới cho ta, Mẹ “đơm cả lời ru” trong đó? Câu thơ khiến tôi xúc động nghẹ ngào trào nước mắt và nhớ Mẹ tôi quá chừng thi sĩ ơi! Anh sống có trách nhiệm, nặng lòng với quê hương, bè bạn.

“Ru lại lời quê” được Nguyễn Vũ Quỳnh thể hiện với các thể loại thơ. Từ lục bát truyền thống đến ngũ ngôn, thất ngôn, từ tứ tuyệt chặt chẽ đến tự do tung tẩy. Lời thơ mộc mạc mà đẹp, câu chữ đầy yêu thương lưu luyến, ý tứ sâu sắc nên câu thơ dễ thấm vào lòng người. Độc giả dễ nhớ bởi Nguyễn Vũ Quỳnh đã thi vị hóa ngôn ngữ xa xưa may mà còn trong kỷ niệm, bởi anh đã gieo cái chất quê đẹp đẽ làm mát lòng người  đương đại. “Ru lại lời quê” là nỗi niềm đau đáu với quê của thi sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh. Anh đã nói hộ nhiều người về cùng một nỗi niềm gan ruột đó. Vì sao anh lại lấy tên tập thơ là “Ru lại lời quê” bởi chỉ có lời ru mới nhớ lâu trong tâm trí con người. Lời ru là sự ân tình luôn nhắc nhở mình cả khi lớn lên, đi xa, đến già nua còn nhớ và anh “Ru lại lời quê” ân tình là ý nghĩa nhất. Cả đời mắc nợ quê hương, bằng tập thơ này anh đã trả được phần nào cái nợ ân tình rồi đấy thi sĩ ạ. Xin được hân hoan niềm vui tác phẩm mới của thi sỹ đầy ý nghĩa trong thời buổi ngày nay.

Đ.X.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm