TIN TỨC

KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-07-22 18:53:05
mail facebook google pos stwis
1020 lượt xem

NGUYÊN BÌNH
 

Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh

Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm.

(Nguyễn Đức Hạnh).

Tác giả tập thơ Khát cháyNguyễn Đức Hạnh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ ngành Ngữ văn, Nhà giáo Ưu tú. Ông là nhà nghiên cứu - phê bình văn học với nhiều công trình có giá trị.

Tôi đọc Khát cháy chậm rãi – theo lời khuyên của nhà thơ Nguyên Hùng – và dành thời gian chiêm nghiệm từng thi ảnh, từng trường liên tưởng đầy thách thức. Có thể xem Khát cháy là biểu hiện dũng khí của một cây bút trí thức sau bao năm chiêm nghiệm về triết lý và học thuật xã hội đương đại. Nền học thuật đã và đang trải qua thời kỳ sóng gió, xáo động tận gốc rễ nền tảng tư tưởng, phương pháp luận. Trong môi trường đó, ông âm thầm và kiên quyết định hình một phong cách sáng tác thơ của riêng mình.

1. Trong Khát cháy, thi tứ, thi ảnh, ngôn ngữ thơ có sự giao thoa rất lạ: vừa mộc mạc chân thực vừa siêu thực. Sự giản dị đồng hành cùng ánh sáng soi chiếu vào chiều sâu đối tượng

Sự chân thật và giản dị trong ngữ ngôn Khát cháy là những viên gạch rắn rỏi, thô ráp mà vững chắc tạo nên sự bứt phá cho nền tảng thơ mới mẻ đầy cá tính mà anh đang cách tân. NĐH mạnh dạn gạt bỏ hình thức tu từ cổ điển, xóa nhoà miền tâm thức ao tù cũ kỹ, xây dựng một phong cách sáng tác tự do, độc lập, ở đó ông thỏa sức sáng tạọ. Có thể nói, Khát cháy làm nên một NĐH, một tác giả mới, người luôn nuôi dưỡng trong trái tim nguồn cảm hứng từ hình ảnh gần gủi, dân tộc và đậm sâu, xa lánh những khoa trương đao to búa lớn. Với học hàm của mình, ông dư thừa những kiến văn kinh điển nay đã sáo mòn. Ông đã chọn hình ảnh và ngôn ngữ bình dân nhất: Nhà dột mang hết xoong nồi ra hứng / Mẹ hứng bằng đôi mắt trũng sâu / Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ / Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu. (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi). Giản dị như nhà nhà đem xoong nồi hứng khi mưa dột, mỗi câu thơ nhìn đơn sơ mà đấy ắp những khám phá bất ngờ. Những khám phá này đâu lại trong từng mảng không gian hiện thực lẫn siêu thực, tạo độ nén và ám gợi mạnh mẽ người đọc trong suốt tác phẩm. Ông dễ dàng phát hiện và nắm bắt động thái bên trong của dòng ý thức. Đơn giản mà không dễ dãi để kiến tạo những câu thơ sâu lắng thoát thai từ tâm hồn nhạy cảm và đôn hậu: Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ trong khi Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu. NĐH thong thả lấp đầy không gian thơ đối xứng xoay quanh cơn mưa bằng quan sát tinh tế, bằng cảm xúc, bằng chính biểu hiện hy sinh thầm lặng của Mẹ và niềm ngây ngô của chú gà Con trong đôi cánh thiên thần.

2. Miền suy tưởng chứa đựng thiền triết phương Đông đã ngấm sâu vào bản nguồn tư tưởng học thuật đồng hành cùng sự ngưỡng vọng tâm linh

Mời các bạn thưởng chén Trà Tân Cương của nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh. Xin nói thêm một chút, điều thú vị là ông lớn lên và thành danh tại xứ Trà huyền thoại này:

Trà thơm làm em thơm hay ngược lại?

Nhắm hờ mắt chạm môi vào trầm tích

Những ban mai vỗ cánh gọi mời

Tựa mặt trăng nhìn trời

Nghe trà kể trăm năm hừng hực

Những phận người lá rách

Chụm về đây thành rừng

(Trà Tân Cương)

Chúng ta hãy thử làm một phép tích phân về nghệ thuật, tính triết luận và sự ám gợi trùng điệp trong thơ NĐH, (dù thơ luôn là đối tượng chỉ để cảm): “Trà thơm làm em thơm hay ngược lại?” Một câu hỏi tưởng chừng đơn sơ, nhưng lại chứa đựng quá trình chiêm nghiệm về bản thể và tác động hổ tương giữa con người và sự vật. Trà thơm vì người thưởng thức? Hay người trở nên thơm nhờ trà? Câu hỏi gợi mở một nghịch lý vừa mang màu sắc triết học phương Đông, vừa gợi nhắc đến sự hòa quyện giữa người và vật, giữa cảm và cảnh – không tách rời, như cụ Nguyễn Du đã từng “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Tôi ngỡ ngàng đến bàng hoàng với “Nhắm hờ mắt chạm môi vào trầm tích”. Theo tôi đây là một câu thơ đẹp, cả tứ lẫn từ. Việc thưởng trà được NĐH miêu tả bằng một sát na thiền định, một tâm thế tiếp cận sâu lắng hài hòa với dòng chảy thời gian ("trầm tích"). Nó hàm ẩn triết lý về việc sống chậm, lắng sâu, chạm đến tầng đáy lịch sử, ký ức, văn hóa của một tách trà – một thứ tưởng như đơn giản nhưng ẩn giấu cả "trăm năm" của “Những phận người lá rách” đổ mồ hôi và nước mắt cho tách trà thơm hôm nay. Trong câu thơ “Những ban mai vỗ cánh gọi mời” nhà thơ dùng thủ pháp nhân hoá, ẩn dụ cho những khởi đầu, thúc đẩy tinh khôi vỗ cánh, mở ra khả năng liên tưởng vô biên, nơi con người tìm về sự trong trẻo nguyên sơ. Trong trẻo là một khát vọng của nhà thơ. Ông đã dùng từ này với tấn suất rất cao. Qua thơ NĐH, Trà không còn là một vật thể nữa, mà trở thành biểu tượng của văn hoá, của thời gian, của thiền, và của con người trong trạng thái tĩnh tại và sâu lắng. Ngưỡng vọng tâm linh kín đáo cũng được tác giả chạm đến trong một số bài với hình ảnh cháo Lú, canh Mạnh Bà, cầu Nại Hà v.v.

Bốn câu thơ nói trên là một ví dụ đặc sắc cho thơ thiền hiện đại – nơi triết lý sống tối giản, sâu sắc. Tác giả không giải thích, không lý luận, mà gợi, để người đọc tự chiêm nghiệm. Mặc dù gợi mở như thế nào cũng không hề là chuyện dễ dàng trong sáng tác thơ

3.  Tâm thế hụt hẫng đớn đau và chất ngất hoài nghi khi cọ xát với nghịch cảnh giũa đời thường được giải mã bằng tình yêu

Thôi đừng tìm chìa khóa nữa em

Mưa như ngàn dây câu thả xuống sông thổn thức

Đắng cay và ngọt ngào có thực

Như gạo trong nồi như lửa bếp chiều nay.

….

Những đứa con hóa thân làm khóa

Khóa cửa căn nhà gặp bão lung lay

(Những chiếc khóa trên cầu tình yêu)

“Thôi đừng tìm chìa khóa nữa em” Một tiếng thở dài. buông xuôi, như lời cuối cho một cuộc tình, chất chứa nỗi mỏi mệt của một người đã cố gắng triền miên để “mở khóa” tìm đến sự hướng thiện tốt lành: tình yêu, cuộc đời, hay chân lý. Chiếc khóa mang tính biểu tượng của niềm tin bị giam cầm, là quá khứ bị đóng kín, hay là cách con người cố níu giữ điều không thể. “Thôi đừng tìm nữa” – Ôi! con người vỡ mộng nhẹ hẫng nhưng đau đớn lắm thay. NĐH và chúng ta đã từng hy vọng, từng tin yêu, nhưng nay đã mỏi gối vi bộ mặt xã hội biến đổi, đen trắng nhập nhòa. Khiến ta Khát. Ta muốn mưa, ta muốn “Tâm biển khơi” nghìn trùng sóng vỗ. Thế mà “Mưa như ngàn dây câu thả xuống sông thổn thức”. Có thể nói đây là ẩn dụ tinh tế về những niềm luyến tiếc, níu giũ, tìm kiếm điều gì đó sâu kín – nhưng lại thả xuống một “ sông thổn thức”, thả xuống bờ vực nội tâm không yên bình. Dòng đời cuộn trôi, giằng xé. Màn mưa trở thành chiếc lưới hiện sinh bủa vây, úp chụp cả bầu trời, gợi cảm giác nhân gian bị nhấn chìm trong nỗi đau không thể gọi tên. Tuy vậy, chúng ta sẽ bất ngờ khi đọc câu cuối. Sự độc đáo, đặc sắc nhất nằn ở kết bài: Những đứa con lại là những chiếc khoá tình yêu kì diệu nhất. Sự khác biệt là ở đây.

Có nhiều điều bay theo khói

Rừng như Mẹ bao dung mà tội nghiệp

Đất như Cha khắc khổ kiệt cùng

Cha Mẹ không nói

Chỉ nỗi buồn đá tảng lăn xuống suối thật trong

Vậng, trên thế gian này có nhiều khát vọng tan thành mây khói. Câu thơ như một sự thở dài nhẹ tênh mà đầy hoài nghi và bất lực: Rừng như Mẹ bao dung mà tội nghiệp / Đất như Cha khắc khổ kiệt cùng”. Cảm thức đồng hóa thiên nhiên – rừng – đất với đấng sinh thành, gợi lên tình cảm nguyên sơ, thiêng liêng. Nhưng ở đó, những từ ngữ “tội nghiệp”, “kiệt cùng” lại thể hiện sự tổn thương tận gốc rễ, không chỉ ở cá nhân tác giả mà còn là nỗi đau văn hóa của nhân loại, khi môi sinh bị tàn phá tàn nhẫn. Tác giả không chỉ đau cho mình, mà còn đau cho đất – cho Mẹ thiên nhiên.  Nhà thơ thảng thốt buông lời phản tỉnh mang tầm vóc thời đại. “Cha Mẹ không nói / Chỉ nỗi buồn đá tảng lăn xuống suối thật trong”

Phải chăng, một trí thức từng tin tưởng, từng khao khát, nhưng hạt gạo đã giần sàng qua bao trải nghiệm sống – đã an vị ở một điểm lặng của suy tư. Họ không còn gào thét hay than vãn, mà chấp nhận sự đắng cay – ngọt ngào, sự tan biến – vô thường.

4. Khát để biển khơi và Cháy lên để mặt trời

Từng giây cháy kiệt cùng kệ mai tan nát

Ghì kiệt cùng như thuỷ triều lên

Thả bài thơ đắm vào đáy nhớ

Nghìn năm sau Dã Tràng khóc đi tìm.

(Trước biển)

Theo tôi nghĩ, NĐH đã sống trọn từng khoảnh khắc bằng tất cả nội tâm, đam mê và khát vọng, tự “cháy” lên không chừa lại điều gì cho bản thân. Anh đã “Ghì kiệt cùng như thủy triều lên” bằng thức tỉnh nội tâm mạnh mẽ. Đây là sự “khát”: khát sống, khát yêu, khát biểu đạt, khát đến mức dồn nén và dâng trào. Cho dù chỉ để “Nghìn năm sau Dã Tràng khóc đi tìm”: phải chăng là nỗi khát khao vô vọng. Nhưng ngay cả khi vô vọng, tâm thức khát và cháy vẫn không ngừng hiện diện lấp lánh đâu đó trong thơ anh. Anh “cháy” đến tận cùng để tìm đến mặt trời và “khát” để tâm thức hóa thành biển khơi.

Chúng ta tiếp tực hành trình khám phá thơ NĐH trong khổ thơ dưới đây. Dĩ nhiên không để làm rõ luận chứng của tiêu đề mà cảm thụ chân thực thơ anh.

Người cũng tự chữa lành như cây
Khúc ca trắng trên đầu, sần trên tay, đỏ tươi trong ngực
Cúi xuống nâng bầm dập sợi tóc trắng rơi vào Hướng dương cháy rực
Em đi chợ về. Nụ cười nở thành đóa hồng nhung.

Tôi thực sự tâm đắc với “Sợi tóc trắng rơi vào Hướng dương cháy rực”: đó là tàn phai và bung lụa, quá khứ và hiện tại đan kết thành một bức tranh sáng rực. Hướng dương tìm ánh sáng suốt ngày hướng về phía mặt trời, Đó là niền hy vọng, là vẻ đẹp của chân lý. Để “Nụ cười nở thành đóa hồng nhung”. Phải chăng thơ là hành trình đi qua đau thương để hồi sinh.

Nguyễn Đức Hạnh khá thành công khi gieo vào lòng người đọc một ngọn lửa tâm hồn vừa âm ỉ vừa bùng cháy, một nỗi khát không bao giờ dừng lại. Bởi, Khát là tiếng gọi từ sâu thẳm tâm hồn và Cháy là bản chất sống mãnh liệt.

Để kết thúc bài viết, tôi (NB) xin mượn lời nhà thơ, cũng là nhà phê bình văn học Mai Văn Phấn đúc kết tác phẩm này trong bài viết Nguyễn Đức Hạnh - Phân mảnh để tỏa sáng: "Khát cháy" là minh chứng rõ nét cho khả năng dung hợp giữa trực giác nghệ sĩ và chiều sâu tư duy học thuật – sự kết tinh của kinh nghiệm sống, khả năng chiêm nghiệm và tinh thần sáng tạo không thỏa hiệp”.

5. Những khổ thơ hay Nguyên Bình chọn lọc và giới thiệu

Còn lửa không? Cố nhóm lửa

Hòn đá yêu thương đập vào sỏi hi vọng

Thắp lên ngọn đuốc cuối cùng

May còn lệ em bốc cháy

Bỏng âm thầm trong im lặng mênh mông.

(Giấc mơ chiều)

 

Không có ai đợi vẫn muốn về Khau Vai

Lệ đã chảy thành sông tiếng gọi

Thơ là loài cây uống nước mắt mà xanh

Là ống sáo câm chờ người thổi...

(Tháng ba này ai có về Khâu Vai)

 

Mây Phú Yên toàn mang hình thiếu nữ

Sóng biển xanh mặn đến kiệt cùng

Nhúng mình vào trong ướp mình vào mặn

Gọi tên em rừng biển hát ngập ngừng

(Tạm biệt Phú Yên)

 

Quang Dũng trên sông. Thác thành tóc sóng thành râu loã xoã

Bài thơ Tây Tiến thành áo khoác vai. Bước từ hoàng hôn đến ban mai

Những vụn thơ rơi hoá cá Anh Vũ

Cắn bóng thi nhân ngậm ngùi

(Gặp Quang Dũng hát trên sông Mã)

 

Có những đêm rực bờ xưa sao sáng

Trẻ con nhốt vào lọ đem chơi

Những mảnh vỡ của bao mơ ước

Nhớ hay quên? Nhoi nhói những mắt người.

(Đom đóm)

 

Sông ôm người bằng sóng. Người ôm sông bằng mắt

Sóng tan rồi sao mắt không tan?

Mắt nhuộm sông. Thay màu từng khoảnh khắc

Em nhuộm tôi.  Biền biệt gió - hoa vàng...

(Thơ tình cho ai nói ít ngẫm nhiều)

 

Thơ nói to và thơ nói thầm

Quảng trường thích thét gào. Ai là người lặng lẽ?

Quá nửa đời đi giữa hai trang viết

Gặp hai nhà phê bình một tai thính một tai điếc

Cả hai cười vu vơ…

(Những loài nói thầm thường đau sâu)

 

Tháng ba mắt nâu

Em đi về đâu?

Còn một ngụm trong lành không nỡ uống

Ngậm trong ngực. Chẳng biết được bao lâu?!

(Tháng ba mắt nâu)

 

Khu vườn ru căn nhà ngủ

Bao loài cây vẫn thức đợi chờ

Những quả chín như mặt trời xấu hổ

Sưởi môi nhau ngọt đến sững sờ.

(Nói với em khi tóc bạc)

 

Thi sĩ là con cá dị biệt biết hát

Làm sao không cô đơn?

Mắt không chớp suốt trăm năm

Cát đâm vào nên hay khóc

(Ngắm bầy cá mà nghĩ)

 

Bà Rịa, ngày 22 tháng 7 năm 2025

N. B.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm