TIN TỨC

Chiến tranh, văn chương và khát vọng hòa bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-03 19:37:12
mail facebook google pos stwis
68 lượt xem

Chiến tranh qua đi, văn chương ở lại — mang theo khát vọng hòa bình sâu sắc. Nếu nhà thơ Nguyễn Duy viết thơ giữa bom đạn để giữ lại “tiếng nói nhân bản” vượt thời đại, thì nhà văn Trầm Hương kể những câu chuyện hậu chiến như lời tri ân với những tâm hồn kiên cường. Văn chương TPHCM xin mời quý  vị và các bạn cùng đọc bài viết “Chiến tranh, văn chương và khát vọng hòa bình” để cảm nhận mạnh mẽ “vùng đất” tinh thần nơi văn chương đặt nền móng cho hòa hợp dân tộc
 

HỒ LAM (Báo Tuổi Trẻ)

Có những cây bút sống và chiến đấu trong những năm tháng lửa đạn sục sôi nhất, có những tác giả ở thời bình lại say mê tìm kiếm và viết về các nhân chứng lịch sử.

Nhà thơ Nguyễn Duy và tập Thơ Nguyễn Duy dày hơn 400 trang, tổng hợp nhiều bài thơ nổi tiếng về thân phận con người thời chiến tranh và hậu chiến - Ảnh: H.LAM

Là một gương mặt thi ca tiêu biểu thời chống Mỹ cứu nước, nhà thơ Nguyễn Duy đã sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng về tình đồng đội, thân phận con người trong chiến tranh và hậu chiến như Nhìn từ xa... Tổ quốc!, Ánh trăng, Đứng lại, Giọt nước mắt và nụ cười, Buổi sáng sau chiến tranh... 

Dịp 30-4, ông cũng vừa tổ chức chương trình đọc và diễn xướng thơ xuyên Việt nhân kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước.

Còn Phó chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM Trầm Hương là cây bút gắn liền với đề tài chiến tranh cách mạng và dòng tiểu thuyết tư liệu trong nền văn học Việt Nam đương đại với các tựa sách Đêm Sài Gòn không ngủ, Chuyện năm 1968, Đường 1C huyền thoại, Trong cơn lốc xoáy...

Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, các tác giả chia sẻ với Tuổi Trẻ những suy nghĩ về văn chương, chiến tranh và hòa bình.

Khát vọng hòa hợp dân tộc

Năm 1965, chàng trai trẻ Nguyễn Duy là tiểu đội trưởng dân quân trực chiến ở khu vực cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) - một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ.

Năm 1966, trở thành lính thông tin của Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc, Nguyễn Duy cùng đồng đội xây dựng và bảo vệ những đường dây liên lạc xuyên Trường Sơn, đảm bảo thông tin truyền tải từ Bộ Tổng tư lệnh đến mặt trận Khe Sanh - Tà Cơn.

Nguyễn Duy kể ông còn tham gia chiến đấu tại nhiều địa bàn lớn như chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968), chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), trận Thành cổ Quảng Trị (1972), chiến tranh biên giới Tây Nam (1978) và phía Bắc (1979) với các vai trò lính thông tin và phóng viên mặt trận.

Trong những năm tháng chiến đấu, Nguyễn Duy đã làm thơ và viết văn. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ trong tập Cát trắng, trong đó có bài Tre Việt Nam đã vào sách giáo khoa lớp 4.

Viết thơ giữa thời chiến, Nguyễn Duy muốn hướng đến làng quê, khát vọng hòa bình và tình người: "Tôi nghĩ sinh ra trên đời không ai muốn ra chiến trường. Vì thời cuộc nên phải vậy. Điều giúp tôi đi qua chiến tranh chính là niềm tin vào hòa bình. Tôi tin đất nước sẽ có ngày thanh bình, dân mình không còn khổ đau. 

Tôi không muốn những vần thơ mình viết ra chỉ có máu xương; tôi mong ở đó còn có tiếng nói nhân bản, khát vọng sống và hòa hợp dân tộc. Tôi là nông dân sống giữa bom đạn nên chỉ mong cuộc chiến sớm khép lại để còn tiếp tục được cày ruộng, nhìn ngắm đất nước, Tre Việt Nam, Ánh trăng trong hòa bình".

Nhiều thế hệ học sinh cũng không quên bài Ánh trăng trong sách giáo khoa lớp 9 với lời nhắn nhủ về "vầng trăng tình nghĩa" mà như Nguyễn Duy tâm tình: "Đó chính là tình đồng đội, nó tồn tại bất diệt khi chiến tranh đã kết thúc. Vì trong lúc cùng khổ, họ đã thương nhau như tri kỷ, ruột thịt".

Những dư chấn thời hậu chiến

40 năm cầm bút, hiện tại nhà văn Trầm Hương vẫn luôn rung cảm và day dứt trước những trang viết về chiến tranh - cách mạng. Từng có thời gian công tác ở Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, bà có cơ hội được tiếp xúc với nhiều hiện vật và tư liệu lịch sử. Công việc của Trầm Hương là đọc tài liệu, thuyết minh cho đoàn khách xem, nghe.

"Một ngày bảo tàng vắng lạnh, nhìn vào những khung kính chật hẹp với vài dòng tiểu sử ngắn gọn về những người anh hùng liệt sĩ, tôi bỗng có mong muốn đi đến những vùng đất gắn liền với đời họ, chạm vào những tư liệu thật bởi đằng sau những cái tên và chiến công ấy, họ cũng có gia đình, tình yêu và khát vọng riêng", bà nói.

Khi viết sách, Trầm Hương còn hiểu hơn về những dư chấn thời hậu chiến mà các chiến sĩ ấy phải trải qua: "Những người bước ra khỏi cuộc chiến đa phần đều có cuộc sống khó khăn. 

Khi viết sách Đường 1C huyền thoại: những bờ vai con gái, tôi có cơ hội trò chuyện với nhiều nữ thanh niên xung phong. Nhiều chị mang trong mình chất độc da cam, khi sinh con ra cũng bị ảnh hưởng.

Rồi có những người thì bị lạc giấy tờ nên không được hưởng trợ cấp sau chiến tranh, lại không nhà cửa nên phải đi lượm ve chai để kiếm sống". Qua những trải nghiệm, Trầm Hương biết viết về chiến tranh là cách để bà trả những món nợ ân tình với những người đã làm nên lịch sử của đất nước và đó cũng là trách nhiệm của người cầm bút.

Văn chương trở thành điểm tựa cho họ hướng tới những giá trị đáng quý của hòa bình.
 


 

Nhiều "đất" cho đề tài chiến tranh

Nhà văn Trầm Hương (bìa phải) gặp gỡ những nhân chứng lịch sử Tàu không số ở Quảng Ngãi - Ảnh: NVCC
 

Nhận xét về sức sống của đề tài chiến tranh trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại, nhà văn Trầm Hương khẳng định:

"Đề tài chiến tranh vẫn luôn nóng hổi và tràn đầy sức sống, bởi nó gắn với con người. Trong chiến tranh là mất mát, đổ máu; sau chiến tranh lại là những cuộc đấu tranh khác - để xây dựng gia đình, giữ hạnh phúc, vượt qua dư chấn quá khứ. Tất cả đều liên hệ chặt chẽ với nhau.

Tôi nghĩ thế hệ nhà văn trẻ, với nguồn dữ liệu phong phú và nhiều điều kiện tiếp cận hơn, sẽ nhìn cuộc chiến với con mắt khách quan hơn. Vì vậy tôi tin rằng đề tài này sẽ còn được khai thác tiếp, với những góc nhìn mới mẻ".

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người nghệ sĩ mang tên một dòng sông
Đó là Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Trà Giang.
Xem thêm
Nhà văn Phùng Văn Khai - người lính đa năng của văn chương quân đội
Trong dòng chảy không ngừng nghỉ của văn học nghệ thuật Việt Nam đương đại, có những người đi lặng lẽ như bóng cây, và cũng có những người tỏa sáng lấp lánh bởi đa tài và năng lượng sống mãnh liệt. Nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, người dẫn chương trình cuốn hút - Phùng Văn Khai là một trong số hiếm hoi như thế. Với vai trò Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông không chỉ là cây bút tài năng mà còn là một “người lính văn nghệ” đích thực - dấn thân, cần mẫn, và luôn rực cháy ngọn lửa sáng tạo. Ông là người của nhiều vai trò - một “hệ sinh thái” nghệ thuật sống động.
Xem thêm
Phạm Trung Tín – Từ con chữ đến tấm lòng tri ân
Nguyên Hùng: Trong làng văn nghệ, không thiếu những nhà thơ, nhà văn tài hoa. Nhưng không phải ai cũng đủ nhẫn nại và tâm thành để đi hết hành trình đời người với sự thủy chung son sắt cùng văn chương, cùng bạn văn, và đặc biệt là cùng ký ức.
Xem thêm
Thủy chung với nông nghiệp Tuần Hoàn
Giữa bạt ngàn sắc xanh của núi, đồi đầy sỏi đá vùng quê Phong Thu, Phong Điền, Thành phố Huế, có một người đàn ông đã biến những ước mơ về một nền nông nghiệp bền vững thành hiện thực. Ông là cựu chiến binh Nguyễn Hồng Lam. Bẩy mươi bẩy tuổi, nhập ngũ Mậu thân năm 1968. Thời kỳ miền Nam bước vào giai đoạn tổng tiến công và nổi dậy ác liệt. Hiện là Ủy viên Ủy Ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Ủy viên ban thường trực Trung ương Hội người cao tuổi; Chủ tịch Hội Nông nghiệp tuần hoàn Việt Nam; Nhà khoa học của nhà nông; Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Quế Lâm – một cái tên đã trở thành biểu tượng của ý chí, nghị lực và khát vọng vươn lên từ bàn tay trắng. Câu chuyện của ông Lam không chỉ là hành trình xây dựng một tập đoàn kinh tế vững mạnh mà còn thể hiện bản lĩnh của người lính Cụ Hồ trên mặt trận kinh tế mới, về niềm tin sắt đá vào con đường mình đã chọn, và khả năng “truyền lửa” cho biết bao thế hệ nông dân, con cháu.
Xem thêm
Nhà văn Phạm Thái Quỳnh một mình thong thả “Bến Xuân”
Càng đến với văn chương và lịch sử, dường như Phạm Thái Quỳnh càng có sự thong dong dù những câu chuyện anh viết ra đều canh cánh nỗi đời, phận người. Nói vậy có lẽ nào vô lý? Mà khi đã văn chương sẽ đều có những lý lẽ riêng.
Xem thêm
Nghiên cứu Hồ Chủ Tịch càng sáng rõ hơn về thượng tướng Phùng Thế tài
Tên bài viết này tôi định đặt là Tôi biết rõ hơn về Thượng tướng Phùng Thế Tài khi nghiên cứu về Bác Hồ để nhấn mạnh tới đối tượng chính nhưng ngẫm nghĩ những tâm sự của Bác Tài rất thần tượng Bác Hồ nên đặt lại như trên. Vả lại cũng đúng với công việc chính của tôi. Thôi thì cứ thật thà mà nói, biết gì nói vậy, cái chính là sự trung thực của người viết.
Xem thêm
Mã Thiện Đồng - Người “thư ký” trung thực của mảng truyện ký chiến tranh
Chiến tranh đã tạnh từ lâu, những vết thương thể xác đã lành xẹo nhưng những ký ức kinh hoàng, những vết thương lòng vẫn còn âm ỉ đớn đau trong tâm hồn của những người đã từng bị nhấn chìm trong cuộc chiến vệ quốc Mỹ - Việt vừa qua.
Xem thêm
Hành trình rèn luyện kỹ năng tự học của Nguyễn Hiến Lê
Khi nhắc đến việc tự học, người ta thường nhớ đến tấm gương điển hình là học giả Nguyễn Hiến Lê. Tuy nhiên ít ai biết được rằng, để có được kỹ năng tự học, chính bản thân Nguyễn Hiến Lê cũng phải tự mày mò phương pháp, tự tìm kiếm sách vở và tự nghiên cứu để có thói quen, có được kiến thức sâu rộng ở nhiều lĩnh vực như di tác mà ông để lại.
Xem thêm
Thượng tướng Phùng Thế Tài với mùa xuân đại thắng
Trong hành trình tiến tới Mùa xuân Đại thắng năm 1975, có nhiều vị tướng lĩnh, anh hùng dũng sĩ đã chiến đấu lập công với những dấu ấn đặc biệt. Đã 50 năm kể từ ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những con người góp phần tạo nên chiến thắng lịch sử vẻ vang ấy, nhiều người đã trở về với thế giới của người hiền. Đối với tôi, Thượng tướng Phùng Thế Tài là một vị tướng không chỉ giàu cá tính, có sự quyết đoán, mưu trí, tầm nhìn xa trông rộng, mà ông còn là vị tướng thực hành với những nhiệm vụ cụ thể, ở các khu vực đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đó cũng là nét độc đáo riêng biệt của Thượng tướng Phùng Thế Tài.
Xem thêm
Trần Gia Bảo: Văn học thiếu nhi nuôi một đời vui
Bài viết của Tống Phước Bảo trên Văn nghệ Công an.
Xem thêm