TIN TỨC

Hà Vi Tùng, vị tướng mưu lược…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-12-19 22:37:44
mail facebook google pos stwis
58 lượt xem

Kỷ niệm 81 năm thành lập QĐND Việt Nam, 36 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân

Ký của NGUYỄN MINH NGỌC

Mùa thu năm 1983, tốt nghiệp khóa đào tạo dài hạn, tôi được giữ lại Trường Sĩ quan Không quân, công tác. Bấy giờ, tỉnh Phú Khánh trở thành “cái nôi” đào luyện sĩ quan cấp phân đội; riêng Nha Trang có các trường: Không quân, Hải quân và Thông tin. Ngoài mạn Dục Mỹ, Ninh Hòa, còn có thêm Trường Sĩ quan Lục quân 3. Lính tráng cứ truyền nhau rằng, ngôi trường này do tướng Hà Vi Tùng làm Hiệu trưởng, “khét tiếng” giỏi và sâu sát cấp dưới. Nghe thì cũng chỉ biết vậy, chứ tôi chưa có may mắn được gặp vị tướng lần nào. Mấy chục năm sau, khi chuyển công tác về Sài Gòn, nghề làm sách, cho tôi cơ hội được gặp gỡ, tiếp cận với nhiều người, nhất là các vị tướng lĩnh và thân nhân của họ.

Thiếu tướng Hà Vy Tùng (1925-1994).

Thiếu tướng Hà Vi Tùng, tên khai sinh là Hà Đình Tùng. Dòng họ Hà Đình nhiều đời gắn bó với làng Thầy (Đa Phúc), xã Sài Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Thành phố Hà Nội). Cụ thân Hà Đình Mai là một thợ cả, rời làng lên miền ngược lập nghiệp. Cậu bé Tùng chào đời ngày 8-12-1925 ở Tuyên Quang, nơi về sau được mệnh danh là “Thủ đô kháng chiến”. Được gia đình cho ăn học, anh xuống Hà Nội làm thư ký cho một hãng buôn và tiếp tục theo đuổi sự học. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), anh trở về thành Tuyên làm viên chức ở Ty địa chính tỉnh. Sinh hoạt Đoàn Thanh niên Cứu quốc thị xã Tuyên Quang, chàng trai trẻ được giác ngộ, khởi đầu cho con đường tham gia cách mạng.

Nhờ công việc địa chính, đoàn thể yêu cầu, anh Tùng lấy được một số bản đồ quan trọng và có ý nghĩa. Tiếp đó, anh được giao nhiệm vụ tập hợp một tiểu đội thanh niên tự vệ chiến đấu, đi tuyên truyền, vẽ áp phích, treo cờ Việt Minh và gầy dựng cơ sở cách mạng. Từ sau Quốc dân Đại hội Tân Trào, tiểu đội tự vệ này được sáp nhập vào một đại đội Giải phóng quân ở chiến khu về.

Tổng khởi nghĩa thắng lợi, cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Ít lâu sau, anh Tùng được chọn về Hà Nội theo học khóa huấn luyện của Trường Quân chính Việt Nam (nay là Trường Sĩ quan Lục quân I). Đây là ngôi trường danh giá, nơi đào tạo ra nhiều tướng lĩnh tài ba, xuất sắc của quân đội ta.

Tại đây, học viên được thọ giáo bởi những người thầy là các nhà cách mạng nổi tiếng của đất nước… Giữa bao công việc bề bộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian đến thăm Trường Quân chính Việt Nam, cùng đi có đồng chí Võ Nguyên Giáp. Học viên Hà Vi Tùng được chọn đứng trong hàng quân danh dự đón Bác Hồ. Lần đầu tiên trong đời, được diện kiến vị Cha già của dân tộc, xúc động được Người nắm tay và hỏi chuyện… Niềm vui lớn bất ngờ. Những kỷ niệm ấy cùng lời dạy của vị lãnh tụ đã in sâu vào tâm khảm người lính đi suốt cuộc trường chinh của dân tộc. Lần thứ hai, Thượng tá Hà Vi Tùng được “gặp” Bác trong một trường hợp đặc biệt. Nén đau thương vào sâu trong tâm khảm, ông được cử luân phiên túc trực bên linh cữu của Người…

Tấm bia ghi sự kiện trận đánh, được công nhận Di tích lịch sử văn hoá.

Ngày ấy, chính quyền cách mạng cùng lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thù trong, giặc ngoài vây bủa, khiến cho khóa đào tạo của Trường Quân chính chỉ diễn ra không đầy một tháng. Gây hấn ở Sài Gòn, thực dân Pháp tái xâm lược nước ta một lần nữa. Nam bộ đi trước đứng lên kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi cả nước dốc sức chi viện cho miền Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các đại đội, chi đội Giải phóng quân gấp rút được thành lập, lên đường vào Nam. Người lính Hà Vi Tùng cùng nhiều đồng đội đăng ký tình nguyện đợt đầu tiên. Các đơn vị bộ đội Nam tiến giữ vai trò nòng cốt trong chiến đấu, xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực tập trung ở Đông Nam bộ và Nam Trung bộ.

Cơ duyên sông núi đã khiến cho ông Tùng cùng ba đồng đội được bổ về Khánh Hòa. Sau khi đến gặp Chủ nhiệm Việt minh tỉnh, bộ tứ được giao nhiệm vụ mở lớp đào tạo cấp tốc cán bộ chính trị, quân sự cho địa phương, nguồn vốn đầu tiên của lực lượng vũ trang tỉnh. Nửa đầu tháng 12-1945, thiết giáp hạm Richelieu của hải quân Pháp đổ quân lên Nha Trang, chiếm giữ nhiều vị trí trọng yếu. Trước đó, được quân Anh đội lốt “Đồng minh” ra lệnh, lính Nhật tiến hành bao vây trụ sở Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Khánh Hòa, bắt cán bộ, tước khí giới của tự vệ ta. Tình thế hết sức hiểm nghèo!

Trước tình thế dầu sôi, lửa bỏng, sau hội nghị Xứ ủy Trung bộ, Ban chỉ huy Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa được thành lập. Trung đội do Hà Vi Tùng phụ trách đóng tại đình Xuân Phong, cách thị xã Nha Trang chừng 5km. Đơn vị có nhiệm vụ huấn luyện, giáo dục tinh thần đoàn kết chiến đấu chống quân xâm lược, và trên hết là hỗ trợ người dân quanh vùng.

Liền đó, Tham mưu trưởng mặt trận Hà Văn Lâu giao nhiệm vụ cho Hà Vi Tùng làm Chính trị viên Trung đội trấn ải phòng tuyến Chợ Mới, gồm phía bắc thị xã, khu vực đồi La San, cầu Xóm Bóng, Tháp Bà lên đến Cầu Sắt hầm xe lửa số 1. Nhờ kiến thức lĩnh hội được ở Trường Quân chính, ông Tùng cùng tập thể chỉ huy, vận dụng sáng tạo, xây dựng trận địa phòng ngự từ  Bretelle[1] đến thôn Lư Cấm, chốt chặn giữ mạch máu giao thông liên lạc, tiếp vận từ Trung ương về Khánh Hòa. Tuy vũ khí trang bị hết sức thô sơ, nhưng ý chí quả cảm của những người lính quyết tâm bảo vệ quê hương, bảo vệ đất nước thì cao ngút trời xanh.

Tháng 1-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được Chính phủ phái vào Khánh Hòa thị sát tình hình. Về sau, Đại tướng nhớ lại: “Giặc Pháp đang tấn công phía Nha Trang. Máy bay địch lượn ở Khánh Hòa, thả bom và bắn liên thanh xuống thành phố… Các đồng chí chỉ huy mặt trận về báo cáo tình hình, bàn kế hoạch tác chiến, rồi lại vội vã ra đi[2]...”.  

Cuộc chiến bao vây giam chân quân Pháp 101 ngày đêm (23-10-1945 – 1-2-1946) kết thúc vang dội. Trong thư “Gửi các chiến sĩ miền Nam”, Bác Hồ viết:  “Chính phủ Dân chủ Cộng hòa rất khen ngợi các chiến sĩ ở các mặt trận miền Nam, đặc biệt là các chiến sĩ ở Nha Trang và ở Trà Vinh, đã làm gương anh dũng cho toàn quốc. Tổ quốc biết ơn các bạn, toàn thể đồng bào noi gương các bạn”[3].

Các đơn vị, Đại đội 80, Tiểu đoàn 360, do ông Tùng dẫn dắt in dấu chân trên các nẻo đường Khánh Hòa, gắn với các địa danh như: Đại Điền, Cầu Ngói, Dốc Mỏ, Hòn Hèo... Giữa tháng 5-1949, trên đất Phú Yên, Tiểu đoàn 365 được thành lập, ông Hà Vi Tùng làm Tiểu đoàn trưởng. Với biệt danh Tiểu đoàn Lá Mít, đơn vị gieo bao nỗi khiếp sợ cho giặc Pháp và ngụy binh. Trong đội hình của Trung đoàn 803, Tiểu đoàn Lá Mít được Bộ Tư lệnh Liên khu 5 điều ra phối thuộc với chiến trường chính, lập nhiều chiến công, góp phần đánh bại cuộc hành quân Atlante của địch, “chia lửa” với chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Khi rút về Đức Phổ, Quảng Ngãi, Trung đoàn phó Hà Vi Tùng tìm gặp lại người con gái xinh đẹp mà ông đã quen biết từ hai năm trước. Ấy là cô giáo Nguyễn Thị Đại (tức Nguyễn Thị Năm). Đôi trai tài, gái sắc đến với nhau, được gia đình và đơn vị vun vén, tác thành. Một đám cưới đời sống mới giản dị, với sự chúc phúc của đông đảo cán bộ, chiến sĩ cùng bà con lối xóm, ông Võ Bẩm - Chính ủy Trung đoàn 803 làm chủ hôn. Vui duyên mới, người lính tiếp tục trở lại đơn vị chiến đấu.

Tập kết ra Bắc, ông Tùng lần lượt đảm nhiệm Tham mưu trưởng Sư đoàn, rồi Lữ đoàn trưởng, Tư lệnh phó Sư đoàn 341. Cấp trên thấy rõ và đánh giá cao tố chất tham mưu chỉ huy vượt trội của người con Phủ Quốc - Thành Tuyên. Điều đó không có gì lạ vào những năm đầu thập niên 70, khi đương chức Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận B5, ông được điều động về làm Chủ nhiệm Khoa bộ binh, Học viện Quân sự (nay là Học viện Lục quân).

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở Lữ đoàn 341 ở Vĩnh Linh, chiếm lĩnh và xây dựng Cồn Cỏ thành đảo tiền tiêu, Lữ đoàn trưởng Hà Vi Tùng đóng góp lớn vào việc xây dựng pháo đài phòng thủ vùng giới tuyến.

Từ sau chiến dịch Bình Giã ở Đông Nam bộ kết thúc với thắng lợi vang dội, sự nỗi lực của quân dân toàn miền Nam, đẩy chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đến trước bờ vực bị phá sản và thất bại hoàn toàn. Nhằm kịp thời đối phó với âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, cấp trên quyết định cử nhiều cán bộ chỉ huy tài năng, có tư duy sáng tạo, bổ sung cho chiến trường.

Mùa hè 1964, Mặt trận Tây Nguyên được thành lập, với phiên hiệu B3. Thay vì đi học ở Liên Xô, ông Tùng nhận lệnh trở lại chiến trường. Bộ phận Tiền phương của B3 do các ông Hà Vi Tùng và Dương Liên phụ trách. Đây là những cán bộ chỉ huy đầu tiên của mặt trận.

Đầu năm 1965, đã có 23.000 quân viễn chinh Mỹ đến Nam Việt Nam. Chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân, đồng thời liều lĩnh đổ quân vào miền Nam, trực tiếp tham chiến, hòng ngăn chặn đà thua của quân đội Sài Gòn, đẩy Việt cộng đến chỗ lụi tàn, sớm kết thúc cuộc chiến.

Bộ khung Sư đoàn bộ binh 1 sớm có mặt ở Tây Nguyên. Khí thế của trận đầu thắng Mỹ ở Núi Thành có sức cổ vũ mãnh liệt. Còn chưa kịp công bố quyết định thành lập thì cấp trên mở chiến dịch Plây-me (19-10 đến 26-11-1965). Đụng độ với Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 hiện đại của Mỹ là việc chưa có tiền lệ. Với sự nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị thấu đáo, các trung đoàn bộ binh (320, 33 và 66) thực hiện chủ trương “đánh điểm diệt viện”, giáng đòn chí tử. Quân Mỹ bị dồn về thung lũng Ia Đrăng, ta đánh trận then chốt. Cả chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 2.954 tên địch (có 1.700 quân Mỹ), phá hủy 89 xe quân sự, bắn rơi 59 máy bay… Chiến dịch đánh Mỹ đầu tiên ở Tây Nguyên thắng lợi vang dội, được Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng 2 Huân chương Quân công hạng Nhất. Một sự tưởng thưởng hiếm có trong lịch sử quân sự.

Với thắng lợi này, cuối tháng 12-1965, Mặt trận B3 mới tổ chức công bố quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 1 trên cơ sở 3 trung đoàn vừa tham gia Chiến dịch Plây-me. Tư lệnh Hoàng Kiện, Chính ủy Huỳnh Đắc Hương và Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Thượng tá Hà Vi Tùng, sát cánh bên nhau. Với sự mưu lược, trí dũng và sức sáng tạo tiềm tàng, đơn vị càng đánh càng mạnh, “nghênh tiếp” quân Mỹ nhiều trận ra trò, khẳng định vị thế của một sư đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta trên chiến trường Tây Nguyên rộng lớn.

Từ sau chiến dịch Sa Thầy, ông Tùng được điều sang làm Phó Tư lệnh Sư đoàn 3 (Sư đoàn Sao vàng). Tiếp đó, ông ra Bắc giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 320B vừa thành lập, chuyên huấn luyện quân chi viện cho các chiến trường. Kiến thức quân sự cùng những trải nghiệm phong phú qua lăn lộn chiến đấu trên các chiến trường, đã giúp người chỉ huy dẫn dắt sư đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hễ nơi nào cấp trên cần người, thì ông Hà Vy Tùng có mặt đảm trách. Từ nếm trải ở Mặt trận Trị Thiên (B5), đến giảng đường của Học viện Quân sự, ông chuyển sang Cánh đồng Chum - Hạ Lào…

Sau ngày non sông liền một dải (4-1975), ông Hà Vi Tùng tiếp tục được tín nhiệm giữ các chức vụ: Tư lệnh Sư đoàn 341B; Trưởng khoa Nghệ thuật Quân sự - Viện Khoa học Quân sự; Cục trưởng Cục Quản lý Khoa học Quân sự thuộc Học viện Quân sự cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng); Tham mưu trưởng Quân khu 1, bảo vệ biên giới phía Bắc; rồi Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 3. Cơ duyên lần nữa đưa ông trở lại xứ Trầm Hương, nơi người con Phủ Quốc - Thành Tuyên từng sống và bám trụ chiến đấu ở Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa, kìm chân giặc Pháp xâm lược, thưở chính quyền cách mạng còn trong trứng nước. Trong hệ thống các nhà trường Quân đội thì Trường Sĩ quan Lục quân 3 “sinh sau, đẻ muộn” đứng chân ở vùng Lam Sơn - Dục Mỹ nổi tiếng chướng khí, khó khăn, thiếu thốn mọi bề…

Hơn 44 năm trong quân ngũ, lăn lộn chiến đấu và chỉ huy trên nhiều chiến trường cực kỳ gian khổ, khốc liệt, nhận lãnh nhiều trọng trách của quân đội giao phó, Thiếu tướng Hà Vi Tùng đi trọn hai cuộc trường chinh của dân tộc, giúp nhân dân Lào anh em, tham gia bảo vệ biên giới phía Bắc… Điều đặc biệt là dù chưa hề được đào tạo bài bản, vừa cầm súng vừa học ở chiến trường, ông Tùng trở thành một chỉ huy tham mưu tài năng và uyên bác, ba lần về giảng đường quân sự, góp công đào luyện cán bộ cho quân đội. Ở cương vị nào, vị tướng cũng tận tụy cống hiến, được cấp trên tin cậy, cấp dưới yêu mến và kính trọng. Ông để lại những dấu ấn khó quên.

Đầu tháng 12-1989, Hội Cựu chiến binh (CCB) Việt Nam được thành lập, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Chủ tịch danh dự, Thượng tướng Trần Văn Quang làm Chủ tịch. Thiếu tướng Hà Vi Tùng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội CCB Việt Nam, Chủ tịch Hội CCB tỉnh Khánh Hòa. Trên cương vị mới, ông tích cực xây dựng và phát triển tổ chức Hội ở địa phương, khơi dậy phong trào hội viên gương mẫu, nhân rộng các điển hình. Vị tướng dạn dày trận mạc đi tiên phong với kế hoạch xóa đói giảm nghèo ở hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh… Đặc biệt, ông tham mưu giúp lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa mời Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân vào thăm địa phương và dự lễ kỷ niệm 48 năm Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa, đáp ứng nguyện vọng mong mỏi của đông đảo cán bộ và người dân, đặc biệt là các cựu chiến binh từng xông pha chiến trận. Trước đó, khi đương chức Hiệu trường Trường Sĩ quan Lục quân 3, tướng Hà Vi Tùng đã chủ động giúp đỡ Bảo tàng Nha Trang cải tạo cơ sở vật chất, tư vấn giúp làm sa bàn Mặt trận Nha Trang - Khánh Hòa, được các chuyên gia của Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) tấm tắc khen ngợi. Ông sưu tầm, cung cấp tư liệu và hiệu đính giúp Bảo tàng Nha Trang hoàn thành cuốn sách “Mặt trận Nha Trang Khánh Hòa 101 ngày đêm bao vây giam chân quân Pháp (23-10-1945 – 1.2-1946)”. Có thể nói cuộc đời của vị tướng chỉ huy tham mưu đã dành trọn tình gắn bó với đất và người xứ Trầm Hương.

Những năm tháng lăn lộn chiến đấu, hứng chịu nhiều bom đạn và chất độc hóa học kẻ thù, sức khỏe của Thiếu tướng Hà Vi Tùng bị giảm sút trầm trọng. Ông giã biệt cuộc đời ngày 19-12-1994, khi vừa chớm vào tuổi 70. Vài năm trước, ông đã viết sẵn những lời dặn dò các con cháu: “Phải giữ truyền thống gia đình ta. Vợ chồng, anh em phải thương yêu nhau, nhường nhịn nhau. Sống giản dị, thẳng thắn, trong sạch, không đua đòi…”.

Nhận xét về người bạn chiến đấu của mình, Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương (1921-2025) viết: “Có thể nói, qua cuộc đời quân ngũ của mình, đồng chí Hà Vi Tùng đã để lại những dấu ấn đặc biệt là người mưu trí, dũng cảm, thẳng thắn, kiên quyết, được đồng đội tin yêu, kẻ địch nể sợ. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần tự học, tự rèn được tôi luyện qua môi trường chiến đấu.

Đồng đội đưa tiễn Thiếu tướng Hà Vi Tùng, bằng liễn đối: “Chiến trận xông pha, thù khiếp, dân yêu, công đức lớn. Hòa bình xây dựng, Đảng tin, bạn mến, nghĩa tình sâu”. Vị tướng với tài thao lược ra đi chẳng để lại tài sản gì ngoài tấm lòng son. Phần mộ của ông cùng người bạn đời thân yêu hiện yên nghỉ ở xã Vĩnh Phương (nay thuộc phường Bắc Nha Trang), nơi nhìn ra dòng sông Cái hiền hòa, ngày đêm sông nước rì rầm kể mãi chuyện lịch sử hào hùng.

Nhà lưu niệm vị tướng ở Vĩnh Phương.

Cách đó không xa, tại thôn Tây, “Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hà Vi Tùng” được dựng lên. Hy vọng, trong tương lai gần, nơi đây sẽ là một điểm đến của lớp trẻ và du khách khi tìm về nguồn cội, về những tháng năm hào hùng và oanh liệt của cha ông.

Tên của vị tướng đã được đặt cho một con đường ở Đông Hòa, tỉnh Phú Yên (cũ). Nhưng trong tâm tưởng của người dân Khánh Hòa và nhiều tỉnh Nam Trung bộ, Thiếu tướng Hà Vi Tùng xứng đáng được tôn vinh.

Ảnh: GĐCC


[1]. Bretelle (tiếng Pháp), chỉ nơi giao nhau của 2 tuyến đường sắt.

[2]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, H.2006, tr.209.

[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 141.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Pha Long nơi biên cương Tổ Quốc
“Pha Long nơi biên cương Tổ quốc” không chỉ là câu chuyện tìm mộ liệt sĩ, mà là một hành trình nhân văn về ký ức chiến tranh, tình ruột thịt và sự hóa thân thầm lặng của người lính vào từng tấc đất biên cương. Văn chương TP. HCM trân trọng giới thiệu bài ký của nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh
Xem thêm
Phú Yên nghĩa tình và khát vọng hồi sinh - Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng báo Văn nghệ số 50, ra ngày 13/12/2025
Xem thêm
Lời thì thầm của biển – Tản văn của Như Nguyệt
Còn bạn thì sao? Bạn nghe điều gì từ lòng biển? Tôi tin dù bạn nghe được điều gì, hãy giữ lấy niềm tin ấy thật chặt, bởi vì mọi “lời thì thầm” đều có sức mạnh của riêng nó.
Xem thêm
Diễn viên Thương Tín đã về cõi lặng
Thông tin từ chị Bùi Kim Chi (vợ Thương Tín) cho biết, Thương Tín đã qua đời vào khuya nay tại nhà riêng Phủ Hoà, Phan Rang.
Xem thêm
Ký ức về bố – Bút ký Vũ Mạnh Định
Pleiku những ngày này mưa dầm dề do ảnh hưởng bão. Mưa trắng xóa cả bầu trời, gió hun hút qua hàng cây phủ kín cả phố núi. Tiếng mưa khiến lòng tôi chùng xuống, ký ức bất chợt ùa về. Mưa như tấm màn xám phủ trùm đất trời, có khi kéo dài cả tháng không dứt. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ để hiểu nỗi buồn của những cơn mưa, chỉ nhớ nó dai dẳng đến mức sáng hay chiều cũng nhập nhòe một màu xám đục. Nhưng chính sự dầm dề ấy lại trở thành lát cắt đặc biệt của tuổi thơ, để sau này, mỗi lần nghe mưa nơi khác, tôi ngỡ như vừa chạm vào những ngày Pleiku xưa cũ, ngày mưa dài đến mức thời gian như ngưng đọng.
Xem thêm
Một Việt Nam nhân hậu giữa bão lũ và nước mắt
Giữa màn đêm bị xé toang bởi gió, nước và tiếng kêu cứu, người ta lại nhìn thấy những điều kỳ diệu khác: tình người, sự hy sinh, lòng nhân hậu – những phẩm chất làm nên cốt cách vĩ đại của dân Việt.
Xem thêm
Hai vị đại tướng Nam Bộ qua bút ký của nhà văn Trần Thế Tuyển
Lịch sử QĐND VN có nhiều vị tướng huyền thoại. Trên mảnh đất Phương Nam - Nam Bộ cũng có những vị tướng như thế. Đặc điểm chung của các vị tướng Nam Bộ là sống hết mình: Hết mình vì đất nước, nhân dân; hết mình về đồng đội, bạn bè; sống chân thật, thuỷ chung …mà người đời thường gọi là “Ông Già Nam Bộ”.
Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm