TIN TỨC

“Hai cái bụng” của người quản lý văn nghệ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-01-10 15:19:46
mail facebook google pos stwis
1094 lượt xem

NGUYỄN SĨ ĐẠI

Thời Chiến quốc (475-221 Tr.CN), Trung Quốc có nhiều nước, nước nào cũng muốn xưng hùng, xưng bá. Vì vậy, việc trước tiên cần tìm người tài, vua phải tỏ ra mình có lượng hải hà thu được nhân tâm thiên hạ.

Bấy giờ, Điền Cương làm vua nước Tề, thuộc vùng Sơn Đông ngày nay, lấy hiệu là Tề Tuyên Vương. Các mưu sĩ tiến cử với ông ta trong nước có một kẻ sĩ tên là Nhan Súc. Tề Tuyên Vương tìm đến nhà Nhan Súc. Vua bảo: “Súc lại đây”. Nhan Súc cũng bảo: “Vua lại đây”. Có người sợ Súc phạm thượng sẽ bị chém đầu. Nhan Súc nói: Vua gọi Súc mà Súc lại thì Súc là người hoặc ham, hoặc sợ quyền thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua là người quý trọng hiền sĩ. Để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài có tốt hơn chăng? Vua Tuyên Vương nghe vậy, bèn than: “Người quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho…”.

Trên đây là câu chuyện có tính chất kinh điển về thái độ cần có của người lãnh đạo đối với người trí thức, xưa gọi là kẻ sĩ. Thời khai sinh nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ chí Minh cũng có rất nhiều động thái nghĩa cử đối với các bậc nhân sĩ trí thức yêu nước, cả Nho học và Tây học, nhằm thu phục các vị đi theo cách mạng, tham gia sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Trong lĩnh vực quản lý văn hóa-văn nghệ cũng có nhiều câu chuyện rất sinh động. Chẳng hạn trường hợp ông Tố Hữu đã vận động, thuyết phục được Nguyễn Tuân đến với cách mạng, với kháng chiến. Trong hồi ký của mình, Nguyễn Tuân kể: “Sau chiến dịch sông Thao trở về, ông Chính Hữu - lúc này là chính trị viên Trung đoàn Thủ đô - hỏi tôi: “Sao cậu lại không vào Đảng nhỉ?”. Tôi hỏi lại: “Có cần thiết và có thể vào Đảng được không?”. Chính Hữu khẳng định lại: “Cậu nên vào Đảng”. Như vậy người đầu tiên gợi cho tôi ý nghĩ cần phải vào Đảng là Chính Hữu. Tính cách của tôi và Chính Hữu hoàn toàn trái ngược nhau: Tôi thì ngổ ngáo, ngang ngạnh mà Chính Hữu thì hiền lành, chuẩn mực. Vậy mà tôi có thể rất quý và tin Chính Hữu vì tôi nghĩ Chính Hữu hiểu tôi, không nhìn tôi về những cái bề ngoài.

Đầu năm 1950, theo dự định thì Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng là hai người giới thiệu tôi vào Đảng. Nhưng đến ngày tổ chức lễ kết nạp 8/4/1950, Nguyễn Đình Thi bận đi dự Đại hội liên hoan thanh niên thế giới ở Bu-ca-rét, anh Tố Hữu ở T6 (mật danh của Ban Tuyên huấn Trung ương) về dự lễ và nhận luôn là một trong hai người giới thiệu tôi. Thế là trên bước đường cách mạng của tôi, anh Lành là người trong từng giai đoạn đã có những tác động tế nhị và quan trọng. Nhớ hồi đầu cách mạng, một hôm Hoài Thanh đến phố Cầu Mới nói với tôi: “Nhà thơ Tố Hữu muốn gặp anh, anh thấy thế nào?”. Tôi trả lời: “Tôi đã đọc và cũng thích thơ Tố Hữu. Kể ra gặp nhà thơ xứ Huế ấy mà cùng nhau đàm đạo văn thơ cũng rất hay đấy!”. Hoài Thanh nói: “Anh Tố Hữu muốn bàn công chuyện với anh đó!”. Chả là hồi này tôi còn e ngại, ngủng ngẳng với cách mạng, chưa thật sự theo Việt Minh. Chắc anh Tố Hữu đoán biết điều đó nên muốn gặp tôi để lôi kéo tôi đi làm cách mạng. Tôi định thử anh Lành chơi, bèn nói với Hoài Thanh: “Thế thì ta hẹn gặp nhau ở Thủy Tạ nhé!”. Hẹn thế vì tôi biết hồi này Thủy Tạ là nơi đi lại của những phần tử khá phức tạp. Nào Tây đầm, nào tay chân của các đảng phái phản động đều tụ tập ở đây ăn uống... Không ngờ anh Lành lại nhận lời. Anh đã gặp tôi, cùng chạm cốc ở Thủy Tạ. Tôi thấy anh Lành có bản lĩnh, chịu chơi, tôi bắt đầu nể anh, từ chỗ có tình cảm với anh Lành tôi có tình cảm và theo cách mạng. Tiếp theo đó là việc anh Lành tổ chức cho tôi cùng một số anh em văn nghệ sĩ theo bộ đội Nam tiến. Rồi đầu kháng chiến, tôi về Thanh Hóa, anh Lành cũng dẫn dắt tôi cùng Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Lương Ngọc, Chu Ngọc… xúm vào làm tờ báo Chống giặc. Việc tôi từ Thanh Hóa lên Việt Bắc rồi đến Đại hội văn nghệ toàn quốc, được cử làm Tổng thư ký, tôi nghĩ là đều có sự sắp xếp của anh Lành…”. Ông Lê Doãn Hợp, nguyên Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, rồi Bộ trưởng Thông tin - Truyền thông, từng là lính của tướng Trần Độ thời bộ đội. Có lần ông Hợp được ông Trần Độ kể cho nghe câu chuyện như sau: Khi ông Độ làm Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ của Ban Tuyến huấn Trung ương, nhiều người “phản ánh” là ông Hoàng Trung Thông hay “la cà” rượu chè, cần phải góp ý. Ông Độ sinh năm 1923, chỉ hơn ông Thông hai tuổi. Ông Độ rất nổi tiếng trong quân đội, trong giáo dục thanh niên nhưng trong văn học, ông Thông nổi tiếng hơn nhiều. Ông Độ đem ý kiến của mọi người trao đổi với ông Thông. Ông Thông nói với ông Độ: “Trước hết tôi cảm ơn anh. Nhưng tôi cũng muốn nói với anh và qua anh đến với những người phê bình tôi: Nhờ sự “la cà” mà tôi biết thực tế cuộc sống đang diễn ra điều gì, lòng dân đang như thế nào, để may ra tác phẩm mình còn có người đọc. Còn các anh lúc nào cũng ở trong bốn bức tường, không tường xây cũng tường thép (ô tô). Đi cơ sở thì kẻ đưa người đón, chỉ gặp “đồng chí” mà không gặp đồng bào. Chỉ nghe nhiều lời siểm nịnh mà ít trung ngôn. Như thế là các anh đang mất, mất thực tiễn, mất lòng tin của dân... Mất cả tỉnh táo và sự lương thiện của mình... Ông Độ thừa nhận với ông Hợp rằng ông Hoàng Trung Thông là người tuyệt đối trung thành với lợi ích của dân tộc, trung thành với lý tưởng của Đảng, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn hóa văn nghệ của đất nước. Hoàng Trung Thông đã thể hiện quan điểm của ông trong tham luận tại Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ III (1983) “Tính chiến đấu trong công tác lý luận phê bình chính là thể hiện tính không khoan nhượng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn nghệ. Người làm công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình không những chỉ là người lính gác mà còn là người lính xung kích”. Theo Hoàng Trung Thông, người quản lý văn nghệ không chỉ biết bảo vệ nguyên tắc mà còn phải có tấm lòng với văn nghệ sĩ, có bản lĩnh để bảo vệ cái đúng; Đồng thời phải có kiến thức, có uy tín chuyên môn để anh em khâm phục.

*

Có người từng nêu câu hỏi: Vì sao Đảng ta luôn luôn coi trọng Văn hóa - Văn nghệ, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đầu tư nhiều tiền của cho hoạt động sáng tác văn học-nghệ thuật mà dường như ít có tác phẩm có giá trị. Có vấn đề gì về quản lý không? Tôi nghĩ, việc chưa có nhiều tác phẩm hay là do nhiều nguyên nhân, trong đó, hẳn có nguyên nhân quản lý. Mấy chục năm gần đây, gần như ai muốn viết gì thì viết, không có sự đòi hỏi bắt buộc, cũng không được tạo điều kiện hết sức như hồi cách mạng còn khó khăn. Chẳng lẽ, quản lý như trước lại hay hơn bây giờ ư? Tôi không dám chắc điều ấy, nhưng chắc chắn rằng: Người quản lý văn nghệ phải có hai cái bụng: Một bụng chữ để người ta phục và một bụng liên tài, thành tâm để người ta quý, người ta theo…

Nguồn Văn nghệ số 1+2/2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một bút pháp mới lạ qua truyện ngắn Khai khẩu
Nguồn: Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương
Bài viết rất bổ ích của nhà thơ Vương Trọng
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều “lấn cấn” về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh
“Đất rừng phương Nam” của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng là một bộ phim đang gây ra nhiều dư luận sôi nổi. Bộ phim nhận được nhiều lời khen ngợi, nhưng cũng có không ít tiếng chê. Dĩ nhiên với tư cách là một sản phẩm nghệ thuật, những thành công của phim rất đáng ghi nhận, song khi xem xong bộ phim, đọng lại cũng là không ít điều “lấn cấn” trong lòng một khán giả như tôi.
Xem thêm