TIN TỨC

Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-05 14:18:27
mail facebook google pos stwis
581 lượt xem

TRẦN NGỌC TUẤN

Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.

“Nguyễn Khuyến là một trong những cây đại thụ của văn học dân tộc. Gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn dân Việt” (Vũ Thanh). Cuộc đời thường của Nguyễn Khuyến có nhiều giai thoại thú vị, phản ánh tài năng, tính cách cũng như sự sâu sắc, thâm nho của ông.

 

Tác giả Trần Ngọc Tuấn

 

Thâm cay… nào biết trên đầu có ai!

Nguyễn Khuyến làm quan dưới triều Tự Đức, sau đó đến Hàm Nghi và Đồng Khánh. Khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam, ông cáo bệnh xin về quê, không cộng tác với Pháp. Có giai thoại kể về Nguyễn Khuyến ứng đối với vua Tự Đức như sau: Trong một lần yết kiến, vua Tự Đức muốn thử tài của Nguyễn Khuyến, bèn ra vế đối: “Vũ trụ giai phàm nhân, hạ tân hạ” (Vũ trụ đều là người thường, còn ai hơn?). Nguyễn Khuyến ứng khẩu đối lại: “Giang sơn duy ngã bối, thượng hữu thượng” (Giang sơn chỉ có ta, còn ai trên?). Câu đối thể hiện sự tôn trọng, sắc sảo nên được vua khen ngợi. Song, bình sinh những giai thoại kiểu tâng bốc, nịnh nọt như trên của Nguyễn Khuyến cực kỳ ít ỏi. Đa số các giai thoại của Tam Nguyên Yên Đổ là phê phán, thâm cay với những kẻ “tai to, mặt lớn”, các vị học thức “dỏm” đương thời mà ông từng gọi là “Giấy má nhà bay đáng mấy xu” (Tiến sĩ giấy), như một phần trong mảng thơ trào phúng của ông.

Giai thoại kể, có anh con trai nhờ đút lót và quyền thế của bố mà được bổ làm tri huyện Thanh Liêm (gần huyện Nguyễn Khuyến ở). Sau, anh này bày trò thi thơ để che đậy bản chất của hắn là hay ăn tiền đút lót và làm mật thám cho Pháp. Tin lọt đến tai Nguyễn Khuyến, ông đã gửi cho hắn bài thơ thất ngôn bát cú châm biếm để khỏi còn thấy cảnh chướng tai gai mắt, trong đó có cặp câu đầy mai mỉa: “Nghênh ngang võng lọng nhờ công sứ/ Ngọng nghẹo văn chương giở giọng Ngô”. Ngô ở đây là giặc Ngô, quan niệm xưa nay của người Việt ta là một thứ giặc xấu, ác.

Tổng đốc Nam Định thời bấy giờ là Vũ Văn Báo, có lần viết thư mời Nguyễn Khuyến đến nhà chơi. Việc này Nguyễn Khuyến biết rõ là Vũ Văn Báo làm theo lệnh của công sứ Pháp, muốn mua chuộc, lôi kéo ông ra làm quan để thu phục lòng người lúc bấy giờ. Nguyễn Khuyến nhận lời và cho cả con trai là Nguyễn Hoan đi cùng. Khi Vũ Văn Báo nói đến việc chính phủ bảo hộ muốn mời Nguyễn Khuyến ra làm đốc học thành Nam, Nguyễn Khuyến không trả lời, chỉ rung đùi ứng khẩu đọc hai câu thơ chữ Hán, bản dịch: “Đến cổng nhà ngươi thời gặp chó/ Kịp đem con trẻ thế thân già”. Sự thể là, ngay trước đó, khi mới đến nhà Vũ Văn Báo, Nguyễn Khuyến một phen hết vía vì bị con chó Tây nhảy xổ tới cắn, may là Nguyễn Khuyến đã đẩy con trai lên cản chó. Hai câu ứng khẩu trên ngầm cho thấy sự bất hợp tác và ngầm mỉa mai của Nguyễn Khuyến với Vũ Văn Báo. Hôm sau, Nguyễn Khuyến làm bài thơ khá dài mượn lời một gái góa gửi cho Vũ Văn Báo. Trong đó có mấy câu mở đầu: “Chàng chẳng biết gái này gái góa/ Buồn nằm suông quên cả áo cơm/ Khéo thay cái mụ tá ơm/ Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi…”. Nguyễn Khuyến dùng “tá ơm” ý chỉ việc Vũ Văn Báo mối lái cho mình ra làm quan với Pháp. Ông khôn ngoan từ chối như vậy, khiến Vũ Văn Báo cay cú lắm nhưng chẳng làm được gì, từ đó không còn ý định lôi kéo gì nữa.

Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải bấy giờ cũng đã từng bị Nguyễn Khuyến “châm” cho một vố đau lắm nhưng chỉ “ngậm bồ hòn” làm vui. Số là Tết năm ấy, Hoàng Cao Khải báo tin cho Nguyễn Khuyến sẽ đến nhà chơi. Vốn biết Hoàng Cao Khải là một Việt gian, Nguyễn Khuyến bèn nghĩ đến việc phải xỏ cho Hoàng Cao Khải một vố. Ông cho người trồng cây nêu trước nhà và ghi câu đối: “Kiết kiết can mao, tiết đáo, kinh thiên phù nhật nguyệt” (nghĩa là: Chót vót cờ mao, Tết đến, chống thời phò nhật nguyệt). Hoàng Cao Khải đọc xong thích lắm, nhưng chỉ mới một câu, bèn nài nỉ Nguyễn Khuyến viết nốt câu hai. Nguyễn Khuyến biết Hoàng Cao Khải đã bị mình đưa vào bẫy. Ông dẫn Hoàng Cao Khải xuống bếp nhà mình, nơi mấy cỗ đầu rau (vua bếp làm bằng đất) mới nặn, chỉ cho Hoàng Cao Khải câu đối thứ hai: “Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác quân vương” (nghĩa là: Mênh mang khối đất, gặp thời, quét rác cũng làm vua). Ý tứ sâu xa của câu này ngầm nói rằng Hoàng Cao Khải chỉ là kẻ tầm thường, chẳng qua gặp thời thì lên thôi.

Tương truyền, năm 1905, Lê Hoan (một đại thần cuối triều Nguyễn) tổ chức cuộc thi vịnh Kiều ở Hưng Yên mời Nguyễn Khuyến làm giám khảo. Khi đọc thơ vịnh của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến cho là khá. Nhưng khi đọc đến hai câu vịnh về Sở Khanh: “Làng nho người cũng coi ra vẻ/ Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay” của Chu Mạnh Trinh thì ông không bằng lòng. Nguyễn Khuyến phê bên cạnh bài vịnh: Rằng hay thì thực là hay/ Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa. Chuyện lọt ra ngoài, Chu Mạnh Trinh giận lắm, muốn “trả thù” Nguyễn Khuyến. Nhân ngày Tết, Chu Mạnh Trinh (lúc này làm án sát Hưng Yên) cho người mang tặng Nguyễn Khuyến chậu hoa trà với ý xỏ lá hoa chỉ có sắc mà không có hương, vì biết lúc này Nguyễn Khuyến đã lòa cả hai mắt. Nguyễn Khuyến hiểu được thâm ý của Chu Mạnh Trinh, bèn làm bài thơ mỉa mai rồi sai người gửi cho Chu Mạnh Trinh: “Tết đến ngươi cho một chậu trà/ Đương say đâu biết cóc đâu hoa/ Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ/ Áo tía đai vàng, bác đó a?/ Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá/ Gió to luống sợ lúc rơi già/ Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi/ Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà”. Chu Mạnh Trinh xem xong vừa thẹn vừa ân hận. Có người nói đùa rằng vì bài thơ này mà Chu Mạnh Trinh xin từ chức án sát, không làm quan nữa.

Thâm trầm với người dân thôn quê

Là một người học giỏi, đỗ cao nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan hơn 10 năm rồi lui về ở ẩn. Trong bài Di chúc ông từng dặn con: “Đề vào mấy chữ trong bia/ Rằng: Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”. Cho nên phần lớn cuộc đời Nguyễn Khuyến sống ở quê. Và nơi đây đã ghi lại dấu ấn nhiều giai thoại cho thấy Tam Nguyên Yên Đổ là một nhà nho rất thâm trầm với người dân thôn quê.

Ở quê, Nguyễn Khuyến sống giản dị, thương dân. Một lần, có người khách đến nhà chơi, thấy ông nghèo, chỉ có mấy cây chuối trong vườn, bèn trêu: “Tam Nguyên mà chỉ có mấy bụi chuối thôi à?”. Nguyễn Khuyến cười đáp lại: “Nhất sĩ, nhì nông, hết gạo thì… nhất nông, nhì sĩ”. Câu nói nửa đùa nửa thật, vừa tự trào vừa phê phán cảnh sĩ phu thời mất nước. Nhiều bài thơ nổi tiếng như Khóc Dương Khuê, Bạn đến chơi nhà… cũng được Nguyễn Khuyến ứng khẩu cảm tác hoặc đọc trong các tình huống sinh hoạt đời thường. Giai thoại về lá “bùa” là một nét sổ (trong chữ Hán) giúp láng giềng không bị cháy nhà tuy cực kỳ giản dị nhưng thâm thúy, sâu sắc. Nét sổ là hình của cái “chày đứng”, đọc lái lại là “đừng cháy”. Thế thôi, nét cơ bản, sơ khởi của người học Hán tự, không cần mê tín, dị đoan gì cả!

Ngoài các giai thoại, như khóc anh thợ rèn, vợ người hàng thịt khóc chồng, trưởng chợ mừng nhà mới…, có lẽ người đời nhớ nhiều nhất là giai thoại Nguyễn Khuyến viết câu đối khóc chồng cho cô vợ của anh làm nghề thợ nhuộm mới mất: “Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bể đỏ/ Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh”. Giai thoại này cho thấy tài chơi chữ kiệt xuất cũng như nghệ thuật viết câu đối siêu việt của thi hào Nguyễn Khuyến.

T.N.T

Nguồn: Tạp chí Giáo dục TP.HCM

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm