TIN TỨC

Chuyện bút danh Đynh Trầm Ca và bài hát Ru con tình cũ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-12-02 18:57:53
mail facebook google pos stwis
65 lượt xem

PHÙNG HIỆU

Cuối cùng thì chú cũng rời xa cháu để đi vào giấc ngủ thiên thu. Nơi đó sẽ chào đón chú bằng âm nhạc, thi ca và hoa trắng. Bài cháu viết dưới đây, đăng trên báo Thanh Niên sáng nay như là một kỷ niệm lưu giữ những gì đẹp nhất, ý nghĩa nhất mà chú và cháu từng sống, từng sẻ chia và ghi dấu. Hãy yên nghỉ chú nhé!

Chuyện bút danh Đynh Trầm Ca và bài hát 'Ru con tình cũ'

Đynh Trầm Ca tên thật Mạc Phụ, sinh năm 1941 tại Vĩnh Điện, Quảng Nam (cũ). Hơn 60 năm tuổi nghề, Đynh Trầm Ca đã sáng tác hơn 300 bài thơ và gần 100 bài ca khúc. Vì tuổi cao sức yếu, nhạc sĩ đã qua đời vào ngày 1/12/2025, hưởng thọ 85 tuổi.

Trong số gần trăm ca khúc do nhạc sĩ, nhà thơ Đynh Trầm Ca sáng tác, có những ca khúc đi vào lòng người như Ru con tình cũ, Sông quê, Nỗi buồn chim sáo, Điệu hò phu thê... Tuy ông nổi tiếng trong giới âm nhạc, nhưng công việc nghệ thuật và sáng tạo đó vẫn không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống nên có thời gian dài ông làm thêm đủ thứ nghề, từ làm phu, làm ruộng, đi đốt than... đến cả viết ca khúc thuê cho người khác để mưu sinh. Nhiều khi ông không muốn nhắc và cũng không muốn nhớ những ca khúc mà ông đứt ruột bán đi, bởi đó là quá khứ buồn.

Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca, nhạc sĩ Như Phương, tác giả Phùng Hiệu và nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển (từ trái sang) - ẢNH: T.L

Tên thật là Mạc Phụ, nhưng ông lại lấy bút danh là Đynh Trầm Ca. Xung quanh cái họ lạ này có nhiều giai thoại thú vị: Nhiều người không rõ Đinh Trầm Ca hay Đynh Trầm Ca? Tôi cũng thắc mắc chuyện này nên có dịp nhâm nhi cùng ông tôi hỏi: Chữ Đynh là ý nghĩa gì chú nhỉ, sao chú lại lấy cái họ lạ này đặt bút danh? Ông cười nhẹ giải thích: “Thật ra chú lấy họ mẹ là họ Đinh, nhưng để "phản ứng" với một nhà làm tự điển đương thời gốc Quảng Ngãi cứ đổi tất tật chữ i (ngắn) sang y (dài) nên chú bèn... viết ngược lại chơi, rồi bạn bè, đồng nghiệp thấy cái họ "Đynh" là lạ, hay hay nên viết riết thành quen, chứ chữ "Đinh" (i) mới chính xác”.

Trong thập niên 60 của thế kỷ trước, văn đàn Việt đã xuất hiện thơ ông được nhiều người yêu thích và chép tay ghi lại, và khi mà nhiều gọi ông là nhà thơ thì ông lại trở thành nhạc sĩ khi bài hát "Ru con tình cũ" vào năm 1967 được nhiều ca sĩ trình diễn, và nổi tiếng qua giọng hát của ca sĩ Lệ Thu, Khánh Ly. Đó là bước ngoặt lớn trong hành trình sáng tác của Đynh Trầm Ca. Và ca khúc này đã ghi tên tuổi Đinh Trầm Ca vào giới âm nhạc Việt. Với điệu boston buồn, những ca từ như những vần thơ đẹp: "Ba năm qua em trở thành thiếu phụ/ Ngồi ru con như ru tình buồn.../ Ôi, ba năm qua rồi, lòng chưa nguôi gió bão.../ Người xa xôi phương nào, người oán trách gì không?". Ca khúc này ra đời đã gắn liền với một giai thoại khá thú vị mà giới văn nghệ thường kể cho nhau nghe: Vào giữa thập niên 60, trên quãng đường từ ngã tư Hà Lam đến Trường học Tiểu La của một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam (cũ) có một cô nữ sinh trung học ngày hai buổi ôm cặp đi về trên con đường phố nhỏ. Cô ấy tên Hồ Thị Thu, người vùng quê thường gọi là Thu Chuẩn (vì ba cô tên Chuẩn) để phân biệt với những người tên Thu khác. Nữ sinh Hồ Thi Thu xinh đẹp với khuôn mặt trái xoan, mái tóc mượt dài, làn da trắng hồng và cặp mắt long lanh như sóng nước hồ thu đã làm cho nhiêu trai làng say đắm, trong đó có 2 chàng thi sĩ, nhạc sĩ tài hoa trái tim cũng lỗi nhịp. Và chàng thanh niên Mạc Phụ (tên thật của Đynh Trầm Ca) đã thương thầm cô nữ sinh bằng ca khúc “Ru con tình cũ”, Võ Hợi (tên thật của Vũ Đức Sao Biển) cũng yêu người không kém bằng bài hát “Thu, hát cho người”. Cả hai ca khúc đều được giới yêu nhạc đón nhận.

Và người con gái tên Thu ấy đã hiển hiện trong thơ ông rất đẹp qua bài thơ "Cây đàn thương nhớ": "buổi ta vác cây đàn ngang trường cũ/ ai như em/ đứng ngó cuối hành lang/ ai như ta ngồi mơ sau cửa lớp/ có lẽ nào mình còn đó sao,Thu?...". Những bài thơ này được nhiều học sinh, sinh viên chép tay rồi truyền tụng, vì thế mà tên tuổi của ông nổi danh từ đó.

Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca ôm đàn hát bài vừa sáng tác tại nhà bạn ở Q.Tân Bình (TP.HCM) năm 2002.

Ngày đó tôi thuộc nhiều bài thơ tình của ông qua nhiều người truyền miệng và chép tay. Qua ngôn ngữ thơ, tôi đoán ông viết từ những năm trước 1975. Một dịp gặp ông ở Sài Gòn (lúc này ông về quê vợ ở miền Tây bán căn tin, thi thoảng mới lên Sài Gòn) tôi hỏi hoàn cảnh ra đời những bài thơ này từ bao giờ, nhưng gần như ông không nhớ: “Chú không nhớ mình làm thơ từ khi nào, chỉ biết rằng khi cái buồn thương man mác chất chứa, khi nỗi đau cái khổ dồn nén, thế là bật ra thơ. Thời đó, làm gì có tiền để in thơ, nên thơ sáng tác ra chỉ chép vào tập giấy, rồi thất lạc không hay. Có khi người khác nhặt được, họ đem ra đọc, mình nghe quen quen, rồi chợt nhớ ra thơ mình. Rồi mãi đến năm 1969, lúc đó chú gần 30 tuổi thì được một người yêu thơ, nhạc tài trợ kinh phí mới in được tập thơ đầu tiên "Mắt đêm". Tập thơ này viết từ năm 1958, được một nhà nghiên cứu giới thiệu là "một trong 5 tập thơ tiêu biểu của năm 1969 của miền Nam”, nhạc sĩ Đynh Trầm Ca tâm sự.

Tiếp là "Khúc ca trôi dạt", "Đi như là trôi" tác giả Hà Khánh Quân nhận định: "Miền Nam giàu sông nước, kinh lạch, nên cùng với đời, thơ Đynh Trầm Ca thật phong phú những tình khúc cận kề với những bến sông, những dòng chảy. Cũng từ nơi đây, anh lượm được những hình ảnh, những hơi thở, những tiếng hát của đời sống kém may mắn. Những hình ảnh thật xác xơ, tội nghiệp, nhớp nhúa, bẩn thỉu, nhưng qua ngôn từ thơ, bỗng nhiên được lột xác để trở thành những vật có linh hồn, sống động một cách chân thành…".

Chia sẻ về nghề, nhà thơ Đinh Trầm Ca nói: "Thơ là người tình đầu tiên và người tình ấy dõi theo ta suốt cả cuộc đời chìm nổi. Nhạc là người tình đem đến sự thăng hoa tột cùng. Không ngạc nhiên khi nhiều nhà thơ gọi tôi là nhạc sĩ, ngược lại nhạc sĩ thì lại gọi tôi là nhà thơ. Cả hai thứ trên cuộc đời này tôi đều... chơi được. Tôi vốn không có duyên được sống và sinh hoạt trong môi trường nghệ thuật chuyên nghiệp, nhưng ý thức sáng tạo trỗi dậy mạnh mẽ ngay khi còn ngồi ghế nhà trường. Thời ấy, những bài thơ tôi làm được phổ biến trong bạn bè, rồi viết nhạc cũng chỉ để hát chơi không ngờ được cộng đồng yêu mến”.

Nếu “Ru con tình cũ” được viết từ trước năm 1975 thì một loạt ca khúc nổi tiếng khác cũng “bén duyên” cùng nhạc sĩ ở những thập niên 80 và 90. Thời gian này ông bén duyên cùng một cô gái miền Tây tên Giang. Có vợ ở miền đồng bằng sông nước, ông có điều kiện và thời gian đi thực tế khắp các tỉnh thành Tây Nam Bộ. Cảnh sông nước hữu tình, đồng bằng bát ngát miền Tây đã khiến cho tâm hồn nhạc sĩ trào dâng cảm xúc lẫn sự sáng tạo và những bài hát Sông quê, Nỗi buồn con sáo, Điệu hò phu thê, Bên cầu nhớ người ra đời từ đó. Đặc biệt ca khúc Sông Quê có hàng chục ca sĩ thể hiện, lời thơ và nhạc điệu đi vào lòng người

Khoảng năm 2010, Đynh Trầm Ca đưa cả gia đình về quê Quảng Nam sinh sống. Tại đây ông mở một quán cafe sân vườn tại khuôn viên nhà, khách hàng ủng hộ khá đông, các văn nghệ sĩ đi công tác miền Trung cũng tranh thủ ghé quán thăm ông. Quán cà phê là nguồn thu nhập chính để nuôi sống cả gia đình ông. Thi thoảng ông vào Sài Gòn theo lời mời bạn bè, nhưng rồi những chuyến đi cũng ít dần theo sức khỏe của ông.

Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca (áo trắng) cùng các văn nghệ sĩ dự buổi họp báo về âm nhạc - Ảnh: Phùng Hiệu.

Từ khi ông và gia đình về Quảng Nam, chúng tôi ít khi gặp nhau, chỉ khi đi công tác ở Đà Nẵng thì tôi ghé thăm ông hoặc thỉnh thoảng 1 - 2 năm ông vào Sài Gòn 1 lần thăm bè bạn. Gặp tôi ông bảo: "Chú giờ già rồi, bẩy mấy tuổi rồi, về quê ẩn dật lo mồ mả tổ tiên gia tộc. Làm con phải có bổn phận hương khói cho ông bà. Vả lại sức khỏe bây giờ cũng yếu rồi, không cho phép “tung tăng” như ngày xưa nữa, giờ uống vài ly rượu đã say”. Rồi ông nhắn nhủ: “Nếu có dịp đi công tác ở miền Trung thì ghé chú chơi. Cháu còn trẻ phải cố gắng lo công việc, đừng lạm vào thơ phú nhiều quá, để "nàng thơ" bắt chẹt thì khổ". Nắm bàn tay ông, tôi thật xúc động khi nhìn thấy những nếp nhăn và mái tóc bạc phơ nơi mái đầu nhạc sĩ.

Vĩnh biệt chú, một thi sĩ, một nhạc sĩ tài hoa một người con xứ Quảng mà tôi luôn luôn kính quý!

Ngày 19h19 ngày 1/12/2025
P.H.

Nguồn: Báo Thanh Niên

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình
Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.
Xem thêm
Nhạc sĩ Thế Hiển - Người lính không mang quân hàm
Bài viết của NSND Nguyễn Thị Thanh Thúy
Xem thêm
Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của nghệ sĩ thị giác, thủ khoa Vũ Tú
Sự tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của nghệ sĩ thị giác, thủ khoa Vũ Tú mang một ý nghĩa không chỉ đối với giới nghiên cứu nghệ thuật mà còn đối với công chúng yêu cái đẹp. Bởi lẽ, thân thế chính là cội nguồn hình thành nhân cách và tài năng của một con người. Khi đi sâu vào quê hương, gia tộc, môi trường văn hóa nơi Vũ Tú sinh ra và lớn lên, ta sẽ thấy rõ sự kết hợp giữa truyền thống Kinh Bắc giàu bản sắc với nền học vấn hiện đại đã nuôi dưỡng nên một tâm hồn nghệ sĩ. Chính bối cảnh ấy đã tạo nên một con người vừa gắn bó với cội nguồn dân tộc, vừa có khát vọng mở ra những chân trời sáng tạo mới.
Xem thêm
Người nghệ sĩ mang tên một dòng sông
Đó là Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Trà Giang.
Xem thêm
Nhà văn Phùng Văn Khai - người lính đa năng của văn chương quân đội
Trong dòng chảy không ngừng nghỉ của văn học nghệ thuật Việt Nam đương đại, có những người đi lặng lẽ như bóng cây, và cũng có những người tỏa sáng lấp lánh bởi đa tài và năng lượng sống mãnh liệt. Nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, người dẫn chương trình cuốn hút - Phùng Văn Khai là một trong số hiếm hoi như thế. Với vai trò Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông không chỉ là cây bút tài năng mà còn là một “người lính văn nghệ” đích thực - dấn thân, cần mẫn, và luôn rực cháy ngọn lửa sáng tạo. Ông là người của nhiều vai trò - một “hệ sinh thái” nghệ thuật sống động.
Xem thêm
Phạm Trung Tín – Từ con chữ đến tấm lòng tri ân
Nguyên Hùng: Trong làng văn nghệ, không thiếu những nhà thơ, nhà văn tài hoa. Nhưng không phải ai cũng đủ nhẫn nại và tâm thành để đi hết hành trình đời người với sự thủy chung son sắt cùng văn chương, cùng bạn văn, và đặc biệt là cùng ký ức.
Xem thêm
Thủy chung với nông nghiệp Tuần Hoàn
Giữa bạt ngàn sắc xanh của núi, đồi đầy sỏi đá vùng quê Phong Thu, Phong Điền, Thành phố Huế, có một người đàn ông đã biến những ước mơ về một nền nông nghiệp bền vững thành hiện thực. Ông là cựu chiến binh Nguyễn Hồng Lam. Bẩy mươi bẩy tuổi, nhập ngũ Mậu thân năm 1968. Thời kỳ miền Nam bước vào giai đoạn tổng tiến công và nổi dậy ác liệt. Hiện là Ủy viên Ủy Ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Ủy viên ban thường trực Trung ương Hội người cao tuổi; Chủ tịch Hội Nông nghiệp tuần hoàn Việt Nam; Nhà khoa học của nhà nông; Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Quế Lâm – một cái tên đã trở thành biểu tượng của ý chí, nghị lực và khát vọng vươn lên từ bàn tay trắng. Câu chuyện của ông Lam không chỉ là hành trình xây dựng một tập đoàn kinh tế vững mạnh mà còn thể hiện bản lĩnh của người lính Cụ Hồ trên mặt trận kinh tế mới, về niềm tin sắt đá vào con đường mình đã chọn, và khả năng “truyền lửa” cho biết bao thế hệ nông dân, con cháu.
Xem thêm
Nhà văn Phạm Thái Quỳnh một mình thong thả “Bến Xuân”
Càng đến với văn chương và lịch sử, dường như Phạm Thái Quỳnh càng có sự thong dong dù những câu chuyện anh viết ra đều canh cánh nỗi đời, phận người. Nói vậy có lẽ nào vô lý? Mà khi đã văn chương sẽ đều có những lý lẽ riêng.
Xem thêm
Nghiên cứu Hồ Chủ Tịch càng sáng rõ hơn về thượng tướng Phùng Thế tài
Tên bài viết này tôi định đặt là Tôi biết rõ hơn về Thượng tướng Phùng Thế Tài khi nghiên cứu về Bác Hồ để nhấn mạnh tới đối tượng chính nhưng ngẫm nghĩ những tâm sự của Bác Tài rất thần tượng Bác Hồ nên đặt lại như trên. Vả lại cũng đúng với công việc chính của tôi. Thôi thì cứ thật thà mà nói, biết gì nói vậy, cái chính là sự trung thực của người viết.
Xem thêm