TIN TỨC

Nhà văn, ứng xử xã hội và sự tự biết mình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-25 19:41:34
mail facebook google pos stwis
93 lượt xem

HÀ THANH VÂN

Một nhà văn có thể được biết đến qua các tác phẩm, nhưng cách họ hiện diện, đối thoại, tranh luận, hay phản ứng trước công chúng và ứng xử với đời sống văn chương mới là lớp "nền" quan trọng để công chúng và giới chuyên môn nhận diện họ toàn vẹn.

Chân dung nhà văn: Còn hơn là một khái niệm

Trong nghiên cứu và phê bình văn học, "chân dung nhà văn" vốn là một khái niệm nhiều tầng nghĩa. Ở cấp độ bề mặt, đó có thể là hình ảnh ngoại diện của một con người cụ thể với gương mặt, dáng hình, giọng nói, thói quen sinh hoạt trong cuộc sống... Nhưng ở một góc nhìn sâu, chân dung ấy là một phức hợp tinh vi, hòa quyện giữa ứng xử xã hội và tác phẩm nghệ thuật, nơi nhân cách nhà văn và tư tưởng sáng tạo hòa quyện thành một chỉnh thể khó tách rời.


Năm 1939, bà Mộng Tuyết được nhận "Lời khen tặng" (chưa phải giải thưởng chính thức) của Tự Lực Văn Đoàn cho thi phẩm “Phấn hương rừng”, từ đó nổi tiếng trên văn đàn.

Lịch sử văn học thế giới cho thấy, nhiều tên tuổi lớn được định hình không chỉ bởi trang viết mà còn bởi cách họ hành xử trong các bối cảnh xã hội khác nhau. Nhà văn Mỹ Ernest Hemingway không chỉ nổi tiếng với thủ pháp nghệ thuật "tảng băng trôi" trong các tiểu thuyết của mình mà còn được đông đảo công chúng biết đến với cá tính độc đáo và sự dấn thân khi tình nguyện tham gia chiến đấu trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Nhà văn Colombia Gabriel García Márquez, vừa là bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vừa là nhà báo dũng cảm lên tiếng góp ý các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước mình. Ứng xử xã hội ở đây không chỉ là phẩm chất đạo đức cá nhân, mà còn là lập trường, thái độ trước văn chương và thời cuộc, là cách nhà văn xác lập "vị trí công dân" của mình trong cộng đồng.

Trong đời sống văn học đương đại, việc đánh giá, nhìn nhận chân dung nhà văn từ góc độ kết hợp giữa ứng xử xã hội và tác phẩm của họ càng trở nên cấp thiết.

Thứ nhất, vì công chúng hiện nay không chỉ đọc tác phẩm mà còn "đọc" cả con người thông qua mạng xã hội, truyền thông báo chí và các sự kiện văn học.

Thứ hai, vì sự song hành (hoặc mâu thuẫn) giữa hai phương diện này có thể hé lộ nhiều điều về hành trình sáng tác, động lực nội tại và cả giới hạn hay tầm nhìn của một tác giả. Nói cách khác, nếu tác phẩm là tấm gương phản chiếu thế giới nội tâm của tác giả, thì ứng xử xã hội là cửa sổ mở ra thế giới bên ngoài, nơi người viết và đời sống thực gặp nhau.

Qua đó, người đọc không chỉ hiểu hơn về một tác giả cụ thể, mà còn thấy rõ mối liên hệ giữa đời sống và văn chương, một mối liên hệ mà như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nhận định, "văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người".

Ứng xử xã hội: Tấm gương phản chiếu nhân cách và lập trường của nhà văn

Ứng xử xã hội của nhà văn không chỉ là cách họ giao tiếp với bạn bè, đồng nghiệp hay công chúng, mà còn là toàn bộ những phản ứng, hành vi và thái độ trước các vấn đề văn chương, chính trị, văn hóa, đạo đức và nhân sinh... Đây là "mặt nổi" mà xã hội dễ dàng quan sát, nhưng đồng thời cũng là "cửa ngõ" giúp ta tiếp cận thế giới nội tâm của tác giả.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, không ít nhà văn đã để lại dấu ấn sâu đậm bởi những lựa chọn ứng xử quyết liệt. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn, từ cuối thập niên 1980, đã xuất hiện như một hiện tượng gây tranh cãi, bởi ông thẳng thắn "đối thoại" với các vấn đề lịch sử, đạo đức và thân phận con người qua những phát biểu công khai cũng như qua các tác phẩm như "Tướng về hưu", "Không có vua".... Thái độ này giúp ông được coi là "người mở cửa" cho văn học đổi mới, nhưng đồng thời cũng khiến ông đối diện nhiều áp lực dư luận.

Một nhà văn chân chính luôn coi trọng trách nhiệm công dân của người cầm bút. Ứng xử xã hội của họ thường gắn liền với bản lĩnh cá nhân, sẵn sàng đối diện tranh luận và thậm chí là rủi ro nghề nghiệp. Hình ảnh của họ khi giao tiếp với công chúng trở thành một phần không thể tách rời trong "chân dung văn học" mà người đọc ghi nhớ.

Tuy nhiên, ứng xử xã hội cũng không đồng nhất về một khuôn mẫu "dấn thân". Một số nhà văn chọn con đường "im lặng chiến lược"  tránh bày tỏ trực tiếp quan điểm trên các diễn đàn công cộng, nhưng vẫn gửi gắm thông điệp xã hội qua tác phẩm. Vì vậy, khi phân tích chân dung nhà văn từ góc độ ứng xử xã hội, cần đặt họ trong bối cảnh cụ thể: môi trường chính trị, xã hội, không gian truyền thông, điều kiện xuất bản và cả cá tính sáng tạo. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể hiểu được tại sao một số tác giả chọn cách đối thoại trực diện, trong khi số khác lại chọn cách lặng lẽ.

Trong thời đại số, mạng xã hội trở thành kênh giao tiếp trực tiếp và nhanh chóng giữa nhà văn và công chúng. Điều này mở ra cơ hội để tác giả chia sẻ suy nghĩ, quan điểm và tương tác với độc giả. Tuy nhiên, cũng chính sự "trực tuyến hóa" hình ảnh cá nhân này khiến họ đối diện với nguy cơ làm suy giảm uy tín nếu ứng xử thiếu kiểm soát.

Khi nhà văn tham gia hoặc khơi mào các cuộc tranh cãi bằng lời lẽ gay gắt, thái độ cực đoan hoặc thiếu tôn trọng, công chúng dễ dàng gắn liền hình ảnh tiêu cực đó với toàn bộ sự nghiệp của họ. Hình ảnh nhà văn, vốn được định hình qua tác phẩm và đóng góp nghệ thuật, có thể bị "che mờ" bởi những ồn ào ngoài văn chương. Trong nhiều trường hợp, các cuộc tranh cãi này còn khiến tác phẩm bị tẩy chay, hoặc độc giả đọc với định kiến, làm giảm giá trị tiếp nhận.

Tuy nhiên, nếu có những tác giả chính danh thẳng thắn tranh luận hay phản biện thì cũng có những người núp dưới những nick ảo hay ẩn danh để tranh cãi, thậm chí không tranh cãi về chuyên môn, chất lượng tác phẩm mà sa đà vào công kích cá nhân. Trong khi đó, công chúng yêu văn chương luôn mong mỏi có những tranh luận học thuật nghiêm túc, với sự chính danh, xuất hiện công khai, không úp úp mở mở, không ẩn danh!

Học thuật nghiêm túc không chấp nhận sự ẩn danh, cũng không chấp nhận sự phỉ báng, nói xấu, quy kết tội cho một cá nhân. Những việc làm này không chỉ trái với tinh thần khoa học nghiêm túc, mà còn trái với nguyên tắc đạo đức con người cũng như quy tắc ứng xử văn hóa trên mạng. Những tác giả nếu có ý định ẩn danh, hãy mạnh dạn bước ra vùng ánh sáng, đối thoại bằng chuyên môn học thuật, đừng ở trong bóng tối ném đá giấu tay.

Tự kiêu trong sáng tác văn học: Ranh giới mong manh giữa bản lĩnh và ảo tưởng

Trong đời sống văn học, sự tự tin vào giá trị tác phẩm của mình là một phẩm chất cần thiết để nhà văn vượt qua những nghi ngờ, phản đối hay định kiến của độc giả. Tuy nhiên, khi tự tin chuyển hóa thành tự kiêu, nghĩa là tin tưởng tuyệt đối vào sự "vượt trội" của tác phẩm và khước từ mọi phản biện, nó có thể trở thành lực cản cho tư duy sáng tạo và làm tổn hại hình ảnh cá nhân nhà văn.

Vấn đề này trở nên đặc biệt nhạy cảm trong thời đại mạng xã hội, nơi mọi phát ngôn được lan truyền nhanh chóng và được đặt dưới ánh đèn soi chiếu của dư luận. Có không ít người mới bước đầu viết văn và đạt một số giải thưởng, thì đã tuyên bố như đinh đóng cột trước các nhà văn đồng nghiệp là tôi mơ có giải Nobel văn học, bất chấp mọi tranh cãi xung quanh chính tác phẩm của mình với dư luận chê chiếm áp đảo.

Nhà văn tự kiêu dễ xem phản biện như sự xúc phạm cá nhân, từ đó bỏ qua những ý kiến giúp cải thiện tác phẩm. Khi đặt mình vào vị trí "bề trên", nhà văn có thể cho rằng người đọc "không đủ tầm" để hiểu tác phẩm, khiến khoảng cách giữa tác giả và công chúng ngày càng rộng. Những phát biểu kiểu như "tôi biết sách tôi hay", "tôi viết khi xuất thần", "tôi viết để chữa lành", "tôi không sửa chữa và viết lại tác phẩm vì như thế là tôi phản bội lại tác phẩm"… dễ trở thành tâm điểm chỉ trích vì sự ngạo mạn, ngộ nhận, khiến cho công chúng quên đi tác phẩm, mà chỉ thấy bóng dáng của nhà văn.

Nhà văn cần nhiều phẩm chất để có thể viết văn, nhưng không được quên một phẩm chất quan trọng: Tự mình phải biết đánh giá đúng năng lực văn chương của bản thân. Khi mà số đông dư luận độc giả thuộc mọi tầng lớp đều chê một tác phẩm là dở, mà tác giả vẫn khăng khăng là "đứa con tinh thần" của mình hay, thì điều này không chỉ là thái độ thiếu tôn trọng độc giả, mà còn cho thấy tác giả này đã tự chặt đứt con đường văn chương của bản thân. Không biết khiêm tốn, không biết học hỏi, thì không thể tiến xa trên con đường văn chương vốn không chấp nhận sự dễ dãi, ngạo mạn, tự kiêu.

Để giữ được bản thân vẫn ở bên bản lĩnh mà chưa bước qua vạch ảo tưởng thì nhà văn cần có niềm tin vào tác phẩm nhưng vẫn cởi mở tiếp nhận những ý kiến khen chê. Tự tin là động cơ, tự kiêu là rào cản. Một nhà văn bản lĩnh không phải là người khẳng định tác phẩm của mình "hay nhất" khi mới nhận giải thưởng nào đó, mà là người biết lắng nghe, đối thoại, đồng thời vẫn giữ vững lập trường sáng tạo.

Trong thời đại truyền thông số, ranh giới này mong manh hơn bao giờ hết; vượt qua nó, sự tự tin sẽ trở thành ảo tưởng và ảo tưởng ấy có thể khiến nhà văn đánh mất cả độc giả lẫn chính mình. Khi tin rằng mình "đang ở đỉnh cao" và người đọc "không hiểu", thậm chí dư luận "độc ác, xấu xa" chỉ vì họ không đồng tình với ý kiến phản biện tác phẩm của mình, lúc đó, nhà văn có thể không còn sự kết nối với công chúng.

Như vậy, chân dung một nhà văn không chỉ nằm trong những trang viết, mà còn được kiến tạo qua nền tảng văn hóa tri thức, cách họ sống, họ đối diện với cộng đồng và thời đại của mình. Chân dung ấy đẹp hay là xấu, đáng trọng hay bị coi thường trong mắt công chúng đều đến từ chính ứng xử, phát ngôn, thái độ của nhà văn đối với độc giả và đối với văn chương.

Nguồn: Văn nghệ Công an.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 – Giá trị và bài học kinh nghiệm trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên mới.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một dấu mốc lịch sử rất quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đang tiến hành các hoạt động kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh mùng 2 tháng 9 (1945-2025) trong tâm thế cả nước đang khẩn trương, phấn khởi, đoàn kết thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh gọn bộ máy, thực hiện việc tổ chức, sắp xếp lại địa giới hành chính, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, khẳng định bước trưởng thành lớn của đất nước mang tính lịch sử. Trên tinh thần đó, chúng ta thấy rõ Cách mạng tháng Tám năm 1945 - giá trị và bài học kinh nghiệm đối với xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên mới là dịp để đội ngũ nghiên cứu khoa học, lý luận phê bình, các nhà văn, nhà báo với chuyên môn và nhiệm vụ của mình, thực hiện các bài viết nhằm tổng kết, đánh giá, vận dụng sáng tạo, phát huy những bài học kinh nghiệm trong các mặt công tác.
Xem thêm
Ngẫm về đổi mới
Bài viết của nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Một thế kỷ đồng hành kiên định và khát vọng đổi mới
Bài đăng Văn nghệ Công an số 763, ngày 12/6/2025
Xem thêm
Hành trình từ quá khứ đến tương lai
Bài đăng Văn nghệ Công an, số 761, ngày 29/5/2025
Xem thêm
Từ một dòng chảy lặng thầm: 50 năm văn học nghệ thuật TP. Thành phố Hồ Chí Minh
Bài đăng Thời báo Văn học Nghệ thuật số 20, ngày 15/5/2025.
Xem thêm
Tiếng nói nhà văn: Một chỗ đứng cho văn chương
Giữ được ngọn lửa văn chương – cũng là giữ lấy linh hồn của dân tộc.
Xem thêm
Văn học TP. Hồ Chí Minh – mạch nguồn không ngơi nghỉ
Bài viết nhân dịp TP.HCM tổ chức tọa đàm kỷ niệm “50 năm văn học nghệ thuật Thành phố – Phát huy truyền thống, tiếp nối tương lai”
Xem thêm
Để văn học Việt Nam cất cánh bay xa?
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số Xuân 2025
Xem thêm
Bản sắc và nguồn cội
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, Xuân 2025
Xem thêm
Văn chương Thành phố Hồ Chí Minh - Một năm nhìn lại
Nguồn: Văn nghệ Công an số ngày 16/01/2025.
Xem thêm
Làm sao để văn học Việt Nam vươn ra thế giới?
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TPHCM số 156, ngày 26/12/2024.
Xem thêm
Cần một “Hội nghị Diên Hồng” cho giáo dục
Bài viết của nhà văn Nguyễn Trường
Xem thêm