TIN TỨC
  • Bút ký - Tạp văn
  • Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình - hành trình trở về với cội nguồn tinh thần dân tộc

Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình - hành trình trở về với cội nguồn tinh thần dân tộc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-06 18:35:10
mail facebook google pos stwis
92 lượt xem

Ghi chép “Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” được viết sau chuyến đi thực tế sáng tác năm 2025 – một hành trình đầy ý nghĩa của Đoàn Văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh tổ chức.

Theo dấu chân Bác Hồ – từ nơi Người ra đi tìm đường cứu nước đến nơi Người yên nghỉ giữa lòng dân tộc – tác giả không chỉ ghi lại cảm xúc của một chuyến đi tri ân, mà còn gửi gắm suy tưởng về lịch sử, văn chương và sứ mệnh của người cầm bút hôm nay. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài đăng trên Văn nghệ Công an số 784, ngày 6/11/2025.



TỪ BẾN NHÀ RỒNG ĐẾN BA ĐÌNH

Ghi chép của NGUYÊN HÙNG

Từ Bến Nhà Rồng đến Làng Sen

Tôi đã nhiều lần đứng trước Bến Nhà Rồng, nơi dòng sông Sài Gòn ôm lấy thành phố như một cánh tay trìu mến. Mỗi lần đến, tôi lại thấy lòng mình rưng rưng. Ở đó, vào sáng sớm ngày 5 tháng 6 năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, tuổi vừa hai mươi mốt, khoác chiếc vali nhỏ, bước lên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, ra đi tìm đường cứu nước. Từ nơi này, hành trình của Người bắt đầu - hành trình định đoạt vận mệnh dân tộc.

Hơn trăm năm sau, tôi - một người cầm bút nhỏ bé, một người con xứ Nghệ, quê Bác - lại đứng nơi ấy. Không phải để khởi hành sang trời Tây, mà đến chào nơi đây để cùng đoàn văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh lên đường theo dấu chân Người, trong chuyến đi mang tên giản dị mà thiêng liêng: "Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình”.

Một cuộc hành hương không chỉ bằng đôi chân, mà bằng cả tấm lòng tri ân, bằng niềm kính yêu của thế hệ hôm nay đối với Người - vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc, đồng thời là một nhà thơ, nhà báo, một người nghệ sĩ lớn.

Đoàn Văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh trước căn nhà tranh, nơi Bác sống từ năm 1901 - 1906.

Về Làng Sen, nắng tháng Mười sau những ngày bão giông càng trải vàng lối nhỏ. Con đường dẫn vào làng như vẫn còn in dấu chân cậu bé Nguyễn Sinh Cung ngày nào, vừa tinh nghịch, vừa trầm tư. Căn nhà tranh đơn sơ ba gian, hàng cau, giếng nước, hàng rào râm bụt... tất cả như đang kể lại câu chuyện về một tuổi thơ trong sáng và giản dị, nhưng đã sớm ươm mầm một ý chí lớn.

Đứng trước mái nhà quê ấy, tôi bỗng nghe lòng mình lặng lại. Bởi trong sự mộc mạc đến tận cùng ấy, ta nhận ra cội nguồn của một tâm hồn vĩ đại: yêu thương, nhân hậu, chân thành, sống giản dị mà sâu sắc đến không cùng. Từ nơi này, Người đã ra đi, và cũng từ nơi này, cả dân tộc ta đã tìm lại được chính mình.

ATK và Tân Trào: Rừng núi và lời thề lịch sử

Từ Nghệ An, đoàn chúng tôi hướng ra Bắc. Đường về ATK Định Hóa và Tân Trào quanh co giữa mây ngàn Việt Bắc. Dưới tán rừng xanh thẳm, gió thổi rì rào như tiếng thời gian vọng lại.

KTS Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP. HCM ghi sổ lưu niệm tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (ATK Định Hóa) - Ảnh: Minh Phúc.

Ở Tân Trào, tôi như còn nghe vang vọng giọng Người đọc Quân lệnh số 1, dõng dạc giữa căn lán nhỏ bên suối Lê-nin, khơi nguồn cho cuộc Tổng khởi nghĩa mùa Thu lịch sử. Còn ở ATK Định Hóa, giữa đại ngàn Thái Nguyên, Người đã ký Quyết định phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, mở đầu một trang mới cho Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Đoàn VNS từ TP. HCM viếng thăm Di tích Quốc gia ATK Định Hóa - Ảnh Minh Phúc.

Tiếng trống khởi nghĩa, tiếng chân người ra trận, tiếng gọi non sông – tất cả dường như vẫn ngân vang trong gió, hòa cùng nhịp thở thiêng liêng của rừng núi Việt Bắc. Giữa không gian ấy, tôi nhớ đến lời Bác từng nhắc nhở: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Đó không chỉ là lời căn dặn người cán bộ, mà cũng là lời nhắc cho những người cầm bút hôm nay: phải viết bằng hơi thở của nhân dân, phải đứng giữa cuộc đời chứ không đứng ngoài nó. Càng không thể thờ ơ đứng nhìn và phán xét!

Tân Trào khiến tôi hiểu thêm rằng: mỗi trang viết cũng là một hạt giống – gieo xuống đất lành của lòng tin, nó sẽ mọc lên những mầm xanh. Người đã dạy chúng ta cách viết, không phải bằng ngòi bút, mà bằng chính cuộc đời mình.

Cây đa Tân Trào – chứng nhân của lời thề năm ấy – nay đã gần như hóa thân vào đất. Nhưng từ gốc rễ già nua ấy, bao chồi xanh lại vươn lên. Như một quy luật của sự sống và niềm tin: những gì chân thật, dù qua bao mùa gió bão, vẫn tìm thấy cách hồi sinh.

Lán Nà Nưa: Phép màu bình dị và lời thề "đốt cháy"

Khi đến thăm Lán Nà Nưa, nơi Bác Hồ từng ở và làm việc trong những năm tháng quyết định của cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng tôi lặng người nghe hướng dẫn viên kể lại một câu chuyện cảm động.

Đoàn VNS từ TP. HCM tham quan Lán Nà Nưa (Tân Trào) - Ảnh: ...

Có lần, tại chính nơi này, Bác Hồ bị bệnh rất nặng - chín phần dữ, một phần lành. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy đang làm việc ở một điểm khác, khi biết tin đã lập tức cho người đi tìm thầy thuốc giỏi trong các bản làng quanh vùng. Cuối cùng, họ gặp được một ông lang già, người Tày, lặng lẽ vào rừng hái lá, nấu thuốc mang đến tận nơi cho Bác.

Chỉ sau vài ngày, Bác hồi phục, tiếp tục làm việc, chủ trì những quyết sách lớn của cuộc kháng chiến. Nhưng lạ thay, sau này dù tổ chức có tìm mãi, người thầy thuốc ấy như tan vào rừng, chẳng ai gặp lại nữa.

Nghe kể đến đây, tôi bỗng rùng mình nghĩ: Nếu ngày ấy không có ông thầy thuốc bình dị mà kỳ diệu ấy, không biết vận mệnh dân tộc sẽ ra sao? Có lẽ, chính nhờ ân huệ của trời đất và lòng dân mà Bác được giữ lại, để rồi soi sáng con đường cho dân tộc ta đi tới độc lập, tự do.

Ngay gần căn lán nhỏ, trên tảng đá khắc dòng chữ vàng: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!"
 

Bia đá khắc lời Bác Hồ bên di tích Lán Nà Nưa - Ảnh: Nguyên Hùng.

Câu nói của Bác như tiếng sấm giữa rừng già Việt Bắc. Từng chữ, từng lời - là lửa, là máu, là mệnh lệnh từ trái tim yêu nước nồng nàn. Đọc lại, tôi bỗng thấy mình như đứng giữa ranh giới của quá khứ và hiện tại, nơi ngọn lửa cách mạng vẫn chưa hề tắt, chỉ đổi hình hài - từ súng đạn năm xưa sang những cây bút, những trang viết hôm nay.

Câu chuyện ở Lán Nà Nưa khiến tôi tin rằng: trong những khúc quanh của lịch sử, dân tộc ta luôn có những bàn tay vô danh nhưng đầy nhân nghĩa nâng đỡ vận mệnh non sông. Và, mỗi người cầm bút cũng cần biết tri ân những điều bình dị ấy, để ngòi bút không chỉ chạm đến lý trí, mà còn chạm đến lòng người.

Ba Đình: Nơi hội tụ niềm tin và nước mắt hạnh phúc

Sáng Hà Nội se lạnh, chúng tôi đứng trước Quảng trường Ba Đình. Trên nền trời thu bảng lảng mây, lá cờ đỏ sao vàng tung bay. Dòng người lặng lẽ nối dài. Tôi bỗng thấy những bước chân của đoàn mình thật nhỏ bé giữa không gian thấm đẫm linh khí thiêng liêng này.

Tôi từng là sinh viên Hà Nội và đã nhiều lần vào Lăng viếng Bác từ những năm đầu tiên. Nhưng lần này, sau nhiều năm mới có dịp về lại, cảm xúc lại rất khác. Khi bước vào, thấy Người nằm đó - thanh thản, hiền từ - lòng tôi dâng lên một niềm xúc động lạ thường.

Tôi thầm cảm ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đã "một lần làm trái ý Bác", khi quyết định giữ gìn và bảo quản thi hài của Người. Bởi nếu chỉ nghe lời Người dặn trong Di chúc: "Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, mà hãy hỏa táng tôi đi”, thì làm sao hôm nay chúng ta - và cả những thế hệ mai sau - có thể tận mắt được nhìn thấy dung nhan Người, để càng thêm yêu, thêm kính, thêm tự hào và thêm trách nhiệm với non sông.

Bước ra khỏi Lăng, tôi thấy tim mình ấm lạ. Giữa những bộn bề của đời sống hôm nay, vẫn còn đó một nơi để con người ta hướng về, để lắng lại, để tìm thấy trong mình niềm tin và sự trong sáng.

Các văn nghệ sĩ TPHCM trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Người truyền lửa cho những trang văn

Là người cầm bút, tôi đặc biệt xúc động khi đọc lại những lời Bác Hồ viết về nghề viết:

“Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”; “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”; “Viết cho hay, cho chân thật, cho trong sáng, để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”…

Những lời ấy, dù đã viết cách nay hàng chục năm, vẫn như kim chỉ nam cho người cầm bút hôm nay. Trong thời đại ồn ào của công nghệ, giữa biển thông tin mênh mông, nhà văn, nhà báo càng cần giữ cho mình sự trong sáng của ngòi bút và lòng trung thực của tâm hồn.

Bởi, như Bác từng dạy: “Người làm báo phải có lập trường chính trị vững vàng, phải có đạo đức cách mạng; nói đúng, viết đúng”.

Viết, vì thế, không chỉ là ghi lại, mà là dựng xây. Không chỉ để ca ngợi, cổ vũ mà còn để thức tỉnh. Và mỗi câu chữ, nếu được viết bằng lương tâm, sẽ trở thành một nhịp cầu nối giữa con người với con người, giữa hiện tại với tương lai.

Tôi sinh ra ở Nghệ An – miền đất gió Lào cát trắng, nơi Bác đã sinh ra, lớn lên, ra đi và hóa thành huyền thoại. Và tôi đang sống ở Thành phố Hồ Chí Minh – thành phố mang tên Người, nơi Bác đã khởi hành cho con đường cách mạng của mình. Hai đầu của một hành trình ấy, nay được nối lại bằng ký ức và lòng biết ơn. 

Đôi khi, tôi tự hỏi: nếu Bác còn sống, Người sẽ dặn dò gì những người cầm bút hôm nay? Có lẽ, Bác sẽ vẫn nhắc điều giản dị: “Phải học dân, hiểu dân, yêu dân – viết cho dân đọc, dân hiểu, dân tin, dân làm theo”.

Và tôi tin, Người sẽ mỉm cười hiền hậu khi thấy lớp con cháu hôm nay vẫn đang miệt mài viết, vẫn muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc giữ gìn tiếng Việt, giữ gìn linh hồn dân tộc.

Con tàu thời gian đã đi qua hơn một thế kỷ, nhưng tiếng sóng dưới chân Bến Nhà Rồng dường như vẫn thì thầm gọi. Từ nơi ấy, Người ra đi để mang về cho Tổ quốc ánh sáng của độc lập, tự do. Từ Ba Đình, Người về yên nghỉ giữa lòng dân tộc.

Còn chúng tôi - những người cầm bút hôm nay - vẫn tiếp tục hành trình ấy, bằng cây bút, bằng trang viết, bằng những nỗ lực không ngừng để góp phần giữ cho dòng chảy văn hóa dân tộc mãi trong lành, sáng trong.

Đi từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình, không chỉ là một chuyến đi qua không gian địa lý, mà là hành trình trở về với cội nguồn tinh thần dân tộc. Ở đó, mỗi người chúng ta đều tìm thấy một phần của chính mình - phần tốt đẹp nhất, lặng lẽ mà bền bỉ như mạch suối nguồn.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2025
N.H.

Mời đọc chùm bài liên quan:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
ời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm