TIN TỨC

Người Mẹ ở cồn Bình Hưng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-05 11:18:31
mail facebook google pos stwis
822 lượt xem

 CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

PHẠM THỊ TOÁN

Cồn Bình Hưng, một cù lao nhỏ thuộc xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Từ Ủy ban xã, chúng tôi tới ấp Bình Mỹ A, xuống đò. Con sông Cái mênh mông sóng nước chia 3 ngả: một về Bình Mỹ A, một qua cồn Bình Hưng của Bình Thạnh và một nhánh sang xã Mỹ Hiệp. Hơn 30 năm tôi mới trở lại nơi đây, cảnh vật gần như lột xác hoàn toàn. Cái hoang sơ, trống trải không còn, thay vào đó là cả một vùng quê trù phú với đủ loại cây trái quanh năm: xoài, ổi, mít, chanh, sầu riêng… Anh Vinh, chuyên viên văn hóa - xã hội phụ trách công tác thương binh - xã hội của xã Bình Thạnh dẫn tôi chạy luồn lách vào những con đường nhỏ, trên đầu mát rượi bởi những hàng cây trái đan xen, tít tắp. Cái nắng chói chang dường như núp hết ở trên những bóng cây.

Được biết Bình Thạnh là một xã anh hùng trong kháng chiến, anh hùng trong lao động. Ngày trước nơi đây là căn cứ của nhiều cơ quan cách mạng. Cuối những năm 60, 70, những đơn vị thuộc cấp huyện, tỉnh, khu và trung ương tới trú đóng bởi địa bàn qua lại rất khó khăn. Muốn qua sông Cái lớn không đụng địch, anh em cán bộ phải dừng chân ở đây, nghe ngóng tình hình địch êm, ghe xuồng mới lẹ phóng qua đưa anh em về những vùng căn cứ của tỉnh Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long… công tác an toàn.


Mẹ Việt Nam Anh hùng Lữ Thị Thôi

Chúng tôi gặp Mẹ Việt Nam Anh hùng Lữ Thị Thôi bên con rạch Khém Sâu, ấp Bình Hưng, với nụ cười rạng rỡ. 85 tuổi, bà say sưa kể chuyện ngày xưa. Là gia đình rặt Việt cộng, bà nội là mẹ Việt Nam Anh hùng tên Thái Thị Kim Anh, với 4 người con và 1 cháu nội đều là liệt sĩ, còn người con thứ 8 cũng là thương binh nặng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tôi thật ngạc nhiên khi bà lôi cái thùng luộc bằng sắt nhỏ cho tôi xem những Tài liệu tập huấn in roneo, những Danh sách chiến sĩ, Danh sách đoàn viên viết tay trong đơn vị của chồng bà đã ép nilon cẩn thận gần như vẫn còn nguyên vẹn, dù cách nay đã hơn 50 năm rồi: Đề án công tác quí 3/1968 của ngành Giao bưu; Tài liệu chỉnh huấn “Bản chất quân đội” cho cán bộ trung đội và chiến sĩ năm 1967; Tài liệu học tập thời sự “Tiếp tục đánh mạnh, đánh đau, đánh cho đến khi Mỹ - ngụy thất bại hoàn toàn”… Danh sách cán bộ, chiến sĩ đơn vị là giấy pelure mỏng dính, úa vàng, hình chữ nhật bằng bàn tay nối dài chừng 30, 40cm. Các ông đa phần sinh năm 1951, 1952, họ và tên thật, họ tên bí danh, cha mẹ, quê quán, có vợ hay chưa, học mới lớp 1, lớp 2… Cái thùng sắt nhỏ này ông luôn xách theo bên mình. Khi địch càn, bố, ông bỏ hết các giấy tờ “bửu bối” này vô thùng thảy xuống ao, đìa rồi trốn xuống hầm bí mật hoặc né sang vùng bên. Phải nói loại thùng luộc của Mỹ ngày xưa kín thật, nằm dưới nước rất lâu mà không hề bị rò rỉ nước vô dù một giọt. Còn tụi địch có “trời” cũng không mò ra được, bà nói. Tụi Mỹ chắc không bao giờ nghĩ ra chúng đã cung cấp cho ta một dụng cụ bảo vệ tài liệu mật quá tuyệt vời nhất là những tháng mùa mưa của vùng miền Tây Nam bộ này.

Chồng bà là người con thứ ba của bà Kim Anh, tên Nguyễn Văn Thọ (còn gọi Ba Thọ). Ông sinh năm 1932, khi theo cách mạng là giao bưu Quân khu 8 đóng ở kinh Bùi, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (Quân khu 9 hiện nay) lúc gặp máy bay đổ quân, bị địch bắn bị thương, mất máu nhiều quá. Đơn vị đưa ông về chôn ở nghĩa trang tạm của dân. Sau ngày thống nhất đất nước mới đưa về nằm ở nghĩa trang tỉnh nhà. Còn con trai là Nguyễn Văn Chiến. Anh sinh năm 1959. Lớn lên trong một gia đình, dòng họ đi theo cách mạng gần hết nên anh cũng nhiễm “cái máu” Việt cộng. Lúc nhỏ, tầm 10 tuổi, anh trốn nhà theo mấy chú, bị lựu đạn nổ, gia đình chở qua Nhà thương Sa Đéc băng bột rồi đem về nhà tr thương. Lớn hơn một chút, ba hy sinh, căm thù tụi lính làng chuyên ức hiếp dân lành, cậu bé lén bỏ kíp nổ vô túi tên trưởng, phó ấp khi tụi này ngồi khề khà uống rượu. Hai tên này đi về một đoạn phát hiện có gì cồm cộm trong túi, thò tay móc ra thấy trái. Hoảng hồn, chúng thảy vội xuống sông, trái nổ nhưng hên cho chúng không sao. Bị lộ, anh chạy trối chết về nhà, mượn vội ghe chú Tám kế bên, lấy máy của gia đình chạy trốn vào du kích xã Bình Thạnh luôn. Gia đình lo lắng thắt ruột. Mấy tháng sau loa phóng thanh bên sông, thông báo Việt cộng về công đồn Khém Sâu của ấp, cả nhà và bà con lối xóm mới biết anh theo bộ đội. Rồi trong một lần đi công tác, anh bị địch bắn tỉa, hy sinh ngày 25/5/1974 khi vừa tròn 15 tuổi. Bốn năm, 2 cái tang 2 người đàn ông trụ cột của gia đình, tim bà muốn đông cứng lại. Bà không khóc nổi nữa, chỉ lo sao nuôi nổi bẩy miệng ăn khi bà còn trơ trọi một mình. Nhiều đêm thao thức, khóc chán rồi lại tự an ủi mình: Thôi, cha con ông ngã xuống để ngày thống nhất càng gần hơn…

Nhìn bà vẫn có những nét đẹp, phúc hậu của thời con gái. Khi kể về ông, về con trai, những người đã ra đi từ những năm 70, tôi vẫn thấy nét mặt rạng rỡ, tự hào trên gương mặt đầy nếp nhăn của bà. Có lẽ thời gian quá xa, bà coi sự ra đi của ông, của con như một lẽ đương nhiên vì non sông đất nước.

Tôi đùa: - Ông, bà có yêu nhau không?

Bà cười, bẽn lẽn quay đi: - Yêu cái gì mà yêu! Ngày ấy không như bây giờ đâu. Nhờ người quen mai mối cho tôi và ông ấy gặp nhau. Ông nhà tôi cũng qua lại năm bẩy lần tôi mới chịu đó! Nói thật với cô, chúng tôi không biết thế nào là yêu, thế nhưng khi ông đi hai ba tháng không về, không tin tức là tôi lo thắt ruột thắt gan bởi hồi đó chiến tranh, nay sống, mai đã chết rồi, nhất là những người đi theo cách mạng, đi Việt cộng như cha con ông. Gửi con trứng gà trứng vịt cho mẹ tôi, tranh thủ làm bánh tét, bánh ít, mua vải, thuốc hút, thuốc tây, muối, đường, bột ngọt… gom góp chút tiền bán lúa, bán mía, đi làm mướn, làm thuê có được, giấu kín rồi quầy quả bơi xuồng một mình đi thăm ông. Còn tôi không biết chữ, chỉ biết thay chồng nuôi con, cáng đáng mọi việc nhà để ông ấy yên tâm đi du kích. Con cái lớn lên một chút là cho nó nối gót theo ông luôn. Lúc đó mà nhắc tới hai từ “yêu nước” tôi chưa hiểu hết. Nhưng tôi nghĩ đi đằng mình là một lẽ đương nhiên. Đàn ông nơi đây không theo cách mạng thì phải đăng lính cho chúng thôi. Mà đi lính thì… nói thật, nhục nhã lắm, chắc tôi bỏ ông luôn! Xã này là cái nôi của cách mạng, dân tốt lắm cô à, không có ai theo giặc đâu. Mà ông ấy thoát ly gia đình đi cách mạng, có nghĩa tất tần tật mọi việc trong nhà đều do tôi phải gánh vác, thỉnh thoảng ông mới tranh thủ ghé thăm vợ con ít tiếng rồi lại đi liền sợ chúng bố ráp thình lình. Nghĩ lại cũng sợ thật! Sao mà chúng tôi vẫn có thể sống được qua cái thời đạn bom ác liệt ấy. Lúc đó tôi chỉ hơn 40 kí nhưng phải cầm cày, đạp lúa, lợp nhà, kéo cá, chặt tràm mướn… tất cả mọi việc kiếm gạo, kiếm cá để mẹ con sống qua ngày như một người đàn ông thực thụ trong gia đình. Nói thật tôi “không dám” bệnh đâu, nuôi cả bầy con thơ dại để ông khỏi bận tâm, yên lòng mà đi hoạt động.

- Sao bà nuôi con hay vậy!? Một mình nuôi 6 người con và mẹ già ở quê.

- Ngày xưa tôm cá xung quanh mình nhiều lắm. Mấy đứa nhỏ nhảy xuống sông hay ra ngoài ruộng kéo lưới một lát là đủ ăn vài ngày. Rau rác cũng vậy, này rau muống, bông súng, điên điển, lục bình… Chỉ cần có gạo sẵn là không ai bị đói. Con thì cách nhau 3 năm, cứ đứa lớn giữ đứa nhỏ. Tôi còn nhớ khi gặp, nắm bàn tay chai sần, còn trầy trụa của vợ, ông hay thủ thỉ:

- Tôi biết bà ở nhà vất vả lắm, nhưng về thăm nhà, lính tới sao chạy kịp. Tôi không sao đâu. Bà ráng về nhà thay tôi nuôi con. Chuyện nước để tôi lo…!

Tôi ứa nước mắt khi nghe bà kể. Lo cho mẹ già, con gái gánh nặng không nhẹ nhưng bà vẫn sẵn lòng mà không hề than thở hay đòi hỏi gì, dù nhỏ ở ông. Ông và bà tuy không nói ra nhưng như một mặc nhiên, chuyện lớn lo cho nước sẽ do ông gánh vác. Thật đáng quí với những con người Việt Nam sẵn sàng xả thân vì dân tộc.

Tranh thủ 2, 3 ngày ở với ông rồi lại quay quả trở về cặm cụi làm ăn nuôi con. Không ngờ lần gặp ông hôm ấy là lần bà và ông âm dương cách biệt. Ông và con chết đi, đơn vị nhắn vào gặp ông và sau này là con thì chỉ còn thăm nấm mộ mới được đắp vội lên chưa kịp xanh cỏ. Gìàn giụa nước mắt, bà chỉ biết thầm trách ông: Sao không giữ lời hứa với tôi? Tôi có lỗi gì đâu, sao ông và con không về? Còn thằng con. Đau đớn lắm, mới 15 tuổi, nó chưa kịp lớn mà phải chết tức tưởi!            

Xẻo Quýt, Bình Thạnh là vùng căn cứ cách mạng nhưng dài xuống Mỹ Hiệp, Mỹ Long… là dày đặc đồn bốt của địch. Riêng rạch Khém Sâu là vùng cồn ngày ấy còn nhỏ, hẹp. Đa phần là dân nghèo nhưng đi theo cách mạng. Còn bà cũng là cơ sở chuyên móc nối bà con đi thăm những anh em thoát ly, nuôi giấu cán bộ, mua đồ tiếp tế cho anh em trong căn cứ. Thời ấy cách mạng không có dân thì sao mà sống nổi. Không được lòng dân là mất nước. Thương lắm! Bà con, cô bác chèo xuồng qua lại buôn bán, sinh hoạt, dưới những đống trái cây, rau cỏ, tôm cá… luôn có cả những đồ tiếp tế thiết yếu cho anh em.

Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ, mỗi tấc đất chúng ta giành được đều thấm máu thịt của những liệt sĩ đã ngã xuống nhưng nỗi đau và những vết thương, mất mát vẫn còn hằn sâu đến hôm nay. Cả dân tộc này mãi mãi biết ơn họ trong đó có những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng như mẹ Lữ Thị Thôi bên con rạch Khém Sâu, cồn Bình Hưng. Sự hy sinh của các Mẹ vô cùng lớn.

Chính các Mẹ là những người phụ nữ anh hùng và vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm