TIN TỨC

Người Mẹ ở cồn Bình Hưng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-05 11:17:55
mail facebook google pos stwis
1754 lượt xem

 CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

PHẠM THỊ TOÁN

Cồn Bình Hưng, một cù lao nhỏ thuộc xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Từ Ủy ban xã, chúng tôi tới ấp Bình Mỹ A, xuống đò. Con sông Cái mênh mông sóng nước chia 3 ngả: một về Bình Mỹ A, một qua cồn Bình Hưng của Bình Thạnh và một nhánh sang xã Mỹ Hiệp. Hơn 30 năm tôi mới trở lại nơi đây, cảnh vật gần như lột xác hoàn toàn. Cái hoang sơ, trống trải không còn, thay vào đó là cả một vùng quê trù phú với đủ loại cây trái quanh năm: xoài, ổi, mít, chanh, sầu riêng… Anh Vinh, chuyên viên văn hóa - xã hội phụ trách công tác thương binh - xã hội của xã Bình Thạnh dẫn tôi chạy luồn lách vào những con đường nhỏ, trên đầu mát rượi bởi những hàng cây trái đan xen, tít tắp. Cái nắng chói chang dường như núp hết ở trên những bóng cây.

Được biết Bình Thạnh là một xã anh hùng trong kháng chiến, anh hùng trong lao động. Ngày trước nơi đây là căn cứ của nhiều cơ quan cách mạng. Cuối những năm 60, 70, những đơn vị thuộc cấp huyện, tỉnh, khu và trung ương tới trú đóng bởi địa bàn qua lại rất khó khăn. Muốn qua sông Cái lớn không đụng địch, anh em cán bộ phải dừng chân ở đây, nghe ngóng tình hình địch êm, ghe xuồng mới lẹ phóng qua đưa anh em về những vùng căn cứ của tỉnh Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long… công tác an toàn.


Mẹ Việt Nam Anh hùng Lữ Thị Thôi

Chúng tôi gặp Mẹ Việt Nam Anh hùng Lữ Thị Thôi bên con rạch Khém Sâu, ấp Bình Hưng, với nụ cười rạng rỡ. 85 tuổi, bà say sưa kể chuyện ngày xưa. Là gia đình rặt Việt cộng, bà nội là mẹ Việt Nam Anh hùng tên Thái Thị Kim Anh, với 4 người con và 1 cháu nội đều là liệt sĩ, còn người con thứ 8 cũng là thương binh nặng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tôi thật ngạc nhiên khi bà lôi cái thùng luộc bằng sắt nhỏ cho tôi xem những Tài liệu tập huấn in roneo, những Danh sách chiến sĩ, Danh sách đoàn viên viết tay trong đơn vị của chồng bà đã ép nilon cẩn thận gần như vẫn còn nguyên vẹn, dù cách nay đã hơn 50 năm rồi: Đề án công tác quí 3/1968 của ngành Giao bưu; Tài liệu chỉnh huấn “Bản chất quân đội” cho cán bộ trung đội và chiến sĩ năm 1967; Tài liệu học tập thời sự “Tiếp tục đánh mạnh, đánh đau, đánh cho đến khi Mỹ - ngụy thất bại hoàn toàn”… Danh sách cán bộ, chiến sĩ đơn vị là giấy pelure mỏng dính, úa vàng, hình chữ nhật bằng bàn tay nối dài chừng 30, 40cm. Các ông đa phần sinh năm 1951, 1952, họ và tên thật, họ tên bí danh, cha mẹ, quê quán, có vợ hay chưa, học mới lớp 1, lớp 2… Cái thùng sắt nhỏ này ông luôn xách theo bên mình. Khi địch càn, bố, ông bỏ hết các giấy tờ “bửu bối” này vô thùng thảy xuống ao, đìa rồi trốn xuống hầm bí mật hoặc né sang vùng bên. Phải nói loại thùng luộc của Mỹ ngày xưa kín thật, nằm dưới nước rất lâu mà không hề bị rò rỉ nước vô dù một giọt. Còn tụi địch có “trời” cũng không mò ra được, bà nói. Tụi Mỹ chắc không bao giờ nghĩ ra chúng đã cung cấp cho ta một dụng cụ bảo vệ tài liệu mật quá tuyệt vời nhất là những tháng mùa mưa của vùng miền Tây Nam bộ này.

Chồng bà là người con thứ ba của bà Kim Anh, tên Nguyễn Văn Thọ (còn gọi Ba Thọ). Ông sinh năm 1932, khi theo cách mạng là giao bưu Quân khu 8 đóng ở kinh Bùi, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (Quân khu 9 hiện nay) lúc gặp máy bay đổ quân, bị địch bắn bị thương, mất máu nhiều quá. Đơn vị đưa ông về chôn ở nghĩa trang tạm của dân. Sau ngày thống nhất đất nước mới đưa về nằm ở nghĩa trang tỉnh nhà. Còn con trai là Nguyễn Văn Chiến. Anh sinh năm 1959. Lớn lên trong một gia đình, dòng họ đi theo cách mạng gần hết nên anh cũng nhiễm “cái máu” Việt cộng. Lúc nhỏ, tầm 10 tuổi, anh trốn nhà theo mấy chú, bị lựu đạn nổ, gia đình chở qua Nhà thương Sa Đéc băng bột rồi đem về nhà tr thương. Lớn hơn một chút, ba hy sinh, căm thù tụi lính làng chuyên ức hiếp dân lành, cậu bé lén bỏ kíp nổ vô túi tên trưởng, phó ấp khi tụi này ngồi khề khà uống rượu. Hai tên này đi về một đoạn phát hiện có gì cồm cộm trong túi, thò tay móc ra thấy trái. Hoảng hồn, chúng thảy vội xuống sông, trái nổ nhưng hên cho chúng không sao. Bị lộ, anh chạy trối chết về nhà, mượn vội ghe chú Tám kế bên, lấy máy của gia đình chạy trốn vào du kích xã Bình Thạnh luôn. Gia đình lo lắng thắt ruột. Mấy tháng sau loa phóng thanh bên sông, thông báo Việt cộng về công đồn Khém Sâu của ấp, cả nhà và bà con lối xóm mới biết anh theo bộ đội. Rồi trong một lần đi công tác, anh bị địch bắn tỉa, hy sinh ngày 25/5/1974 khi vừa tròn 15 tuổi. Bốn năm, 2 cái tang 2 người đàn ông trụ cột của gia đình, tim bà muốn đông cứng lại. Bà không khóc nổi nữa, chỉ lo sao nuôi nổi bẩy miệng ăn khi bà còn trơ trọi một mình. Nhiều đêm thao thức, khóc chán rồi lại tự an ủi mình: Thôi, cha con ông ngã xuống để ngày thống nhất càng gần hơn…

Nhìn bà vẫn có những nét đẹp, phúc hậu của thời con gái. Khi kể về ông, về con trai, những người đã ra đi từ những năm 70, tôi vẫn thấy nét mặt rạng rỡ, tự hào trên gương mặt đầy nếp nhăn của bà. Có lẽ thời gian quá xa, bà coi sự ra đi của ông, của con như một lẽ đương nhiên vì non sông đất nước.

Tôi đùa: - Ông, bà có yêu nhau không?

Bà cười, bẽn lẽn quay đi: - Yêu cái gì mà yêu! Ngày ấy không như bây giờ đâu. Nhờ người quen mai mối cho tôi và ông ấy gặp nhau. Ông nhà tôi cũng qua lại năm bẩy lần tôi mới chịu đó! Nói thật với cô, chúng tôi không biết thế nào là yêu, thế nhưng khi ông đi hai ba tháng không về, không tin tức là tôi lo thắt ruột thắt gan bởi hồi đó chiến tranh, nay sống, mai đã chết rồi, nhất là những người đi theo cách mạng, đi Việt cộng như cha con ông. Gửi con trứng gà trứng vịt cho mẹ tôi, tranh thủ làm bánh tét, bánh ít, mua vải, thuốc hút, thuốc tây, muối, đường, bột ngọt… gom góp chút tiền bán lúa, bán mía, đi làm mướn, làm thuê có được, giấu kín rồi quầy quả bơi xuồng một mình đi thăm ông. Còn tôi không biết chữ, chỉ biết thay chồng nuôi con, cáng đáng mọi việc nhà để ông ấy yên tâm đi du kích. Con cái lớn lên một chút là cho nó nối gót theo ông luôn. Lúc đó mà nhắc tới hai từ “yêu nước” tôi chưa hiểu hết. Nhưng tôi nghĩ đi đằng mình là một lẽ đương nhiên. Đàn ông nơi đây không theo cách mạng thì phải đăng lính cho chúng thôi. Mà đi lính thì… nói thật, nhục nhã lắm, chắc tôi bỏ ông luôn! Xã này là cái nôi của cách mạng, dân tốt lắm cô à, không có ai theo giặc đâu. Mà ông ấy thoát ly gia đình đi cách mạng, có nghĩa tất tần tật mọi việc trong nhà đều do tôi phải gánh vác, thỉnh thoảng ông mới tranh thủ ghé thăm vợ con ít tiếng rồi lại đi liền sợ chúng bố ráp thình lình. Nghĩ lại cũng sợ thật! Sao mà chúng tôi vẫn có thể sống được qua cái thời đạn bom ác liệt ấy. Lúc đó tôi chỉ hơn 40 kí nhưng phải cầm cày, đạp lúa, lợp nhà, kéo cá, chặt tràm mướn… tất cả mọi việc kiếm gạo, kiếm cá để mẹ con sống qua ngày như một người đàn ông thực thụ trong gia đình. Nói thật tôi “không dám” bệnh đâu, nuôi cả bầy con thơ dại để ông khỏi bận tâm, yên lòng mà đi hoạt động.

- Sao bà nuôi con hay vậy!? Một mình nuôi 6 người con và mẹ già ở quê.

- Ngày xưa tôm cá xung quanh mình nhiều lắm. Mấy đứa nhỏ nhảy xuống sông hay ra ngoài ruộng kéo lưới một lát là đủ ăn vài ngày. Rau rác cũng vậy, này rau muống, bông súng, điên điển, lục bình… Chỉ cần có gạo sẵn là không ai bị đói. Con thì cách nhau 3 năm, cứ đứa lớn giữ đứa nhỏ. Tôi còn nhớ khi gặp, nắm bàn tay chai sần, còn trầy trụa của vợ, ông hay thủ thỉ:

- Tôi biết bà ở nhà vất vả lắm, nhưng về thăm nhà, lính tới sao chạy kịp. Tôi không sao đâu. Bà ráng về nhà thay tôi nuôi con. Chuyện nước để tôi lo…!

Tôi ứa nước mắt khi nghe bà kể. Lo cho mẹ già, con gái gánh nặng không nhẹ nhưng bà vẫn sẵn lòng mà không hề than thở hay đòi hỏi gì, dù nhỏ ở ông. Ông và bà tuy không nói ra nhưng như một mặc nhiên, chuyện lớn lo cho nước sẽ do ông gánh vác. Thật đáng quí với những con người Việt Nam sẵn sàng xả thân vì dân tộc.

Tranh thủ 2, 3 ngày ở với ông rồi lại quay quả trở về cặm cụi làm ăn nuôi con. Không ngờ lần gặp ông hôm ấy là lần bà và ông âm dương cách biệt. Ông và con chết đi, đơn vị nhắn vào gặp ông và sau này là con thì chỉ còn thăm nấm mộ mới được đắp vội lên chưa kịp xanh cỏ. Gìàn giụa nước mắt, bà chỉ biết thầm trách ông: Sao không giữ lời hứa với tôi? Tôi có lỗi gì đâu, sao ông và con không về? Còn thằng con. Đau đớn lắm, mới 15 tuổi, nó chưa kịp lớn mà phải chết tức tưởi!            

Xẻo Quýt, Bình Thạnh là vùng căn cứ cách mạng nhưng dài xuống Mỹ Hiệp, Mỹ Long… là dày đặc đồn bốt của địch. Riêng rạch Khém Sâu là vùng cồn ngày ấy còn nhỏ, hẹp. Đa phần là dân nghèo nhưng đi theo cách mạng. Còn bà cũng là cơ sở chuyên móc nối bà con đi thăm những anh em thoát ly, nuôi giấu cán bộ, mua đồ tiếp tế cho anh em trong căn cứ. Thời ấy cách mạng không có dân thì sao mà sống nổi. Không được lòng dân là mất nước. Thương lắm! Bà con, cô bác chèo xuồng qua lại buôn bán, sinh hoạt, dưới những đống trái cây, rau cỏ, tôm cá… luôn có cả những đồ tiếp tế thiết yếu cho anh em.

Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ, mỗi tấc đất chúng ta giành được đều thấm máu thịt của những liệt sĩ đã ngã xuống nhưng nỗi đau và những vết thương, mất mát vẫn còn hằn sâu đến hôm nay. Cả dân tộc này mãi mãi biết ơn họ trong đó có những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng như mẹ Lữ Thị Thôi bên con rạch Khém Sâu, cồn Bình Hưng. Sự hy sinh của các Mẹ vô cùng lớn.

Chính các Mẹ là những người phụ nữ anh hùng và vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm
Xứ nhãn du ký – Bài viết của Phan Anh
Theo con đường trên mặt đê phía tả ngạn sông Hồng chúng tôi xuôi về phố Hiến để đến với vùng đất nổi tiếng một thời của xứ đàng ngoài mà từng được người đời truyền tụng là tiểu Tràng An và đi liền cùng với câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Xem thêm
Bữa cơm ân tình giữa lòng thủ đô
Trong khuôn khổ chuyến đi về thủ đô tham dự Kỉ niệm 8 năm thành lập và sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của CỘNG ĐỒNG TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM, rất nhiều sự kiện đã diễn ra và đều vô cùng ý nghĩa, trong đó có sự kiện Hoàng Xuân được ăn bữa cơm thân mật cùng với Giáo sư, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học Nguyễn Anh Trí.
Xem thêm
Đêm thơ “tứ thuỷ” – Ký của Trần Thế Tuyển
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển vừa gửi qua Zalo cho Văn chương TP.HCM bài viết nóng hổi về Đêm thơ “Tứ Thuỷ” diễn ra ở Tuy Hoà tối 17/8/2025.
Xem thêm
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Xem thêm
Cầu siêu giữa đại ngàn
Bài viết dưới đây của Đại tá nhà văn Trần Thế Tuyển ghi lại những cảm xúc sâu lắng của một người lính già tại lễ cầu siêu đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi hội tụ nghĩa tình đồng đội và lòng tri ân sâu sắc.
Xem thêm